Wednesday, July 31, 2013

7 bước để lập kế hoạch marketing hoàn hảo!

Quảng cáo 365 - Để xây dựng một kế hoạch marketing hiệu quả không cần đốn đổ cả một cây đại thụ. Trên thực tế, bạn hoàn toàn có thể phác thảo một kế hoạch hoàn hảo cho hoạt động kinh doanh của mình chỉ trong vòng 1 ngày. Để bắt đầu, đừng lo lắng về cách viết hay quá chú trọng để đảm bảo cho kế hoạch được hoành tráng. Bạn chỉ cần lấy một chiếc bút chì, một tờ giấy và bắt tay vào việc!

marketing, kế hoạch marketing
Lập kế hoạch marketing không hề khó

Bước 1 - Hiểu rõ thị trường và các đối thủ cạnh tranh của bạn

Một lỗi lớn mà nhiều chủ công ty mắc phải đó là lao vào sản xuất hay cung cấp sản phẩm, dịch vụ ngay trong khi vẫn còn thiếu hiểu biết về thị trường, cũng như mong muốn và nhu cầu của khách hàng. Nếu bạn cố gắng bán một cái gì đó mà mọi người không muốn, thì hiển nhiên họ sẽ không mua.

hiểu rõ thị trường và đối thủ cạnh tranh
Để thành công, cần hiểu rõ thị trường và đối thủ cạnh tranh của mình

Điều này thật rõ ràng.

Một thị trường sinh lời bao gồm tập hợp những khách hàng tiềm năng có những nhu cầu chưa được đáp ứng, bạn càng đánh trúng vào sự thiếu hụt đó bao nhiêu thì họ sẽ càng quan tâm và sẵn sang mua sản phẩm/dịch vụ của bạn bấy nhiêu. Một thị trường sinh lời có thể được so sánh với một chiếc hồ tại đó có hàng nghìn con cá đang bị bỏ đói. Tất cả những gì bạn cần làm là ném vào đó thật nhiều mồi câu và ngồi chờ số lượng lớn cá cắn câu.

Để có được những hiểu biết về thị trường, bạn nên đặt ra các câu hỏi sau và tự trả lời:

- Những thị trường nào đang chưa được phục vụ thích đáng?

- Thị trường đó có đủ lớn để tạo ra lợi nhuận?

- Bạn cần phải có được bao nhiêu thị phần cần thiết?

- Liệu có sự cạnh tranh lớn tại thị trường sản phẩm/dịch vụ bạn chuẩn bị cung ứng?

- Đâu là điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh mà bạn có thể tận dụng?

- Liệu thị trường có mong muốn và đánh giá cao những sản phẩm/dịch vụ mà bạn sẽ đưa ra?

Bước 2 - Hiểu rõ khách hàng của bạn

Hiểu rõ người tiêu thụ một cách tường tận là bước đầu tiên đảm bảo cho hàng hóa/dịch vụ của bạn được tiêu thụ tốt. Chỉ khi biết rõ các khách hàng là ai, họ mong muốn những gì và điều gì sẽ khích lệ họ mua sắm, bạn mới có thể chuẩn bị được một kế hoạch marketing hiệu quả.
marketing
Hiểu rõ khách hàng giúp bạn phục vụ tốt hơn
Bạn đừng nhầm lẫn giữa “mong muốn” và “nhu cầu”. Mọi người có thể không nhất thiết phải mua sắm những gì họ cần, nhưng họ chắc chắn sẽ mua những gì họ muốn. Ví dụ, chắc bạn đã từng nghe nói về việc một ai đó đến cửa hàng để mua một đôi quần lót họ cần nhưng rồi rời nhà hàng với một chiếc áo và một đôi giày mới? Hay bạn nghĩ thế nào về những bà nội trợ thường ngày đi vào siêu thị mua một ít sữa và trứng nhưng rồi đi ra với bánh pizza, bánh quy bơ và nhiều bánh kẹo khác. Mọi người sẽ mua những gì họ muốn (thậm chí cả khi tiền bạc eo hẹp!), chứ không phải những gì họ cần.

Để thực sự biết rõ khách hàng, bạn cần đặt ra cho bản thân một vài câu hỏi như sau:

- Các khách hàng tiềm năng của mình mua sắm các sản phẩm/dịch vụ như thế nào (tại các siêu thị, trên web, hay giao hàng tại nhà)?

- Khách hàng quan trọng nhất là ai và ai hay điều gì có ảnh hưởng nhất đến quyết định mua hàng của họ (vợ hay chồng, các đại lý bán hàng, các nhà quản trị dự án hay thư kí,...)?

- Các thói quen mua bán của khách hàng là gì? Ví dụ, khi cần thông tin thì họ tìm ở đâu (trên báo chí, truyền hình, truyền thanh,...)?

- Động cơ mua sắm của khách hàng là gì (giúp cải thiện vóc dáng, hình thể; phòng tránh bệnh tật; trở nên giàu có; trở nên nổi tiếng; cuộc sống thoải mái hơn;...)?

Bước 3 - Lựa chọn phân khúc thị trường thích hợp nhất

Nếu bạn nói rằng khách hàng mà bạn nhằm đến là “tất cả mọi người” thì sẽ “không ai” là khách hàng của bạn cả. Thị trường ngày nay quá nhiều các đối thủ cạnh tranh. Bạn sẽ gặt hái nhiều thành công hơn nếu nhảy vào một chiếc ao nhỏ thay vì đại dương rộng lớn. Hãy lựa chọn một phân khúc thị trường cụ thể mà bạn có thế mạnh nhất và tập trung vào đó, sau đấy bạn hoàn toàn có thể quan tâm tới việc chuyển tới phân khúc thị trường thứ hai (nhưng phải sau khi bạn thống lĩnh phân khúc thị trường thứ nhất!).
phân khúc thị trường
Càng xác định rõ phân khúc thị trường bao nhiêu, cơ hội thành công càng lớn bấy nhiêu
Bạn có thể là một luật sư chuyên về bồi thường thiệt hại, hay một nhà phân phối xe thể thao đã qua sử dụng, một nhà giặt khô là hơi áo len có uy tín,... hãy vẽ lên bức tranh về hoạt động kinh doanh của mình. Hãy chắc chắn rằng bạn đã lựa chọn được một phân khúc thị trường thu hút sự quan tâm của bạn nhất và bạn cũng dễ dàng tiếp cận với nó nhất. Không có gì tồi tệ hơn việc lựa chọn một phân khúc thị trường không thể tiếp cận được hoặc để tiếp cận được phải tốn kém hàng núi tiền.

Bước 4 - Phát triển thông điệp marketing của bạn

Các thông điệp marketing của bạn không chỉ nói với các khách hàng tiềm năng những gì bạn làm mà còn thuyết phục họ hãy trở thành khách hàng chính thức. Bạn nên xây dựng và phát triển hai loại thông điệp marketing.

Thông điệp marketing thứ nhất nên ngắn và đi thẳng vào điểm chính. Một vài người gọi loại thông điệp này là bài phát biểu quảng bá (elevator speech) hay nhãn hiệu truyền thanh (audio logo). Đó là câu trả lời của bạn cho câu hỏi: “Vậy, các ngài làm những gì?”.

Thông điệp thứ hai là thông điệp marketing hoàn chỉnh có trong tất cả các tài liệu xúc tiến và quảng bá kinh doanh của công ty. Để có được một thông điệp marketing hấp dẫn và thuyết phục, phải có các yếu tố sau:

- Tùy thuộc vào loại sản phẩm/dịch vụ mà bạn nhấn mạnh hoặc khơi gợi những nhu cầu tiềm ẩn của khách hàng tiềm năng mục tiêu.

- Minh chứng rằng nhu cầu đó quan trọng đến mức cần được thỏa mãn ngay, không chậm trễ.

- Giải thích về việc tại sao bạn là công ty/cá nhân duy nhất có thể thỏa mãn hiệu quả nhu cầu đó cho khách hàng.

- Giải thích về những lợi ích mà mọi người sẽ nhận được từ việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ hay giải pháp của bạn.

- Nêu những ví dụ hay sự chứng thực từ các khách hàng mà bạn đã nhận được cho thấy bạn đã giải quyết thành công trong việc thỏa mãn các nhu cầu tương tự.

- Giải thích về các mức giá, phí và điều khoản thanh toán.

- Một sự đảm bảo, bảo hành vô điều kiện.

Bước 5 - Xác định phương tiện truyền thông marketing của bạn

Như đã đề cập ở trên, sẽ rất quan trọng với việc lựa chọn một phân khúc thị trường dễ dàng tiếp cận nhất. Khi bạn tiến hành tìm kiếm một phương tiện truyền thông marketing riêng, bạn sẽ hiểu được tính đúng đắn của lời khuyên đó.

Phương tiện truyền thông marketing của bạn chính là “chiếc xe” giao tiếp liên lạc mà bạn sẽ sử dụng để truyền tải những thông điệp tiếp thị của mình. Việc lựa chọn một phương tiện truyền thông marketing đem lại hiệu quả lớn nhất so với số tiền bỏ ra là rất quan trọng. Điều này có nghĩa rằng bạn phải lựa chọn một phương tiện truyền thông có thể gửi thông điệp tiếp thị của mình tới hầu hết tất cả các khách hàng tiềm năng với mức chi phí thấp nhất.

Dưới đây là những công cụ tuyệt vời bạn có thể lựa chọn để truyền tải rộng rãi các thông điệp marketing:

- Quảng cáo trên báo chí

- Áp phích quảng cáo

- Các cuộc thi

- Các bài báo giới thiệu

- Các buổi hội thảo

- Quảng cáo trên truyền hình

- Bảng hiệu

- Tiền đóng góp để quảng bá hình ảnh

- Giao nhận trực tiếp

- Các lớp học từ xa

- Quảng cáo trên truyền thanh

- Biểu ngữ

- Hội chợ thương mại

- Trang vàng

- Các bài viết

- Quảng cáo phân loại

- Thư newsletter

- Sự kiện từ thiện

- Mạng lưới

- Hội thảo kinh doanh

- Bảng cáo thị

- Take-one box

- Tiếp thị từ xa

- Quảng cáo trên các tạp chí chuyên ngành

- Các sự kiện đặc biệt

- Thư chào hàng

- Tờ rơi

- Email

- Quảng cáo trên phim ảnh

- Quảng cáo ezine

- Bưu thiếp

- Quảng cáo treo trên cửa

- Các đại lý

- Cơ quan truyền thông trung gian

- Tổng đài fax

- Tài liệu giới thiệu năng lực công ty

- Chứng nhận quà tặng

- Truyền khẩu

- Website

- Chương trình giới thiệu, xúc tiến tại các hội nghị

- Danh thiếp kinh doanh

- Catalogs

- Nói chuyện trước công chúng

Điều quan trọng nhất chính là việc sử dụng phương tiện, cách thức truyền thông thích hợp sao cho thông điệp marketing của bạn đi vào lòng người nghe. Sẽ không hiệu quả khi quảng cáo cho thị trường cộng đồng khách hàng là những người về hưu bằng âm thanh mạnh mẽ, ầm ĩ và có tốc độ nhanh,.... Trong trường hợp này cách thức truyền thông không thích hợp với các khách hàng mục tiêu.

Thành công sẽ đến khi bạn kết hợp hoàn hảo nhất tất cả 3 yếu tố trên.

Bước 6 - Đặt ra các mục tiêu marketing và bán hàng

Các mục tiêu là điều vô cùng thiết yếu cho thành công của bạn. Một “ước mong” là một mục tiêu không được viết ra thành văn bản. Nếu bạn không hoạch định cụ thể các mục tiêu trên giấy tờ, thì thành công mãi mãi chỉ là “ước mong” mà thôi. Khi xây dựng các mục tiêu marketing và bán hàng, bạn hãy sử dụng công thức SMART - theo đó đảm bảo cho mục tiêu của bạn được: (1) Sensible - Hợp lý, (2) Measurable - Có thể đánh giá, (3) Achievable - Có thể đạt được, (4) Realistic - Thực tế, và (5) Time specific - Cụ thể về thời gian.

Các mục tiêu của bạn nên bao gồm những yếu tố tài chính như doanh số bán hàng thường niên, lợi nhuận thuần, doanh thu trên mỗi nhân viên bán hàng,... Tuy nhiên, chúng cũng nên bao gồm các yếu tố phi tài chính như số lượng sản phẩm bán ra, các hợp đồng được ký kết, số khách hàng mới, các bài báo đăng tải,....

Một khi bạn đặt ra được các mục tiêu đó, hãy thực thi những quy trình để tất cả mọi nhân viên trong công ty đều “thấm nhuần”. Chẳng hạn như: xem xét lại các mục tiêu trong những buổi họp bán hàng; thể hiện trong các poster quảng cáo; trao các phần thưởng cho những nhân viên hoàn thành mục tiêu;....

Bước 7 - Xây dựng ngân quỹ marketing của bạn

Ngân quỹ dành cho hoạt động marketing của bạn có thể được xây dựng theo một vài cách thức khác nhau tuỳ thuộc vào mục tiêu mà bạn đặt ra. Sẽ tốt hơn cả nếu bắt đầu bằng những tính toán ước chừng và sau đó dần dần định hình những con số cụ thể hơn tuỳ thuộc vào tình hình thực tế.

Đầu tiên, nếu bạn đã tiến hành hoạt động kinh doanh được trên một năm và ghi lại các khoản chi phí liên quan tới marketing, bạn có thể dễ dàng tính được chi phí để có được một khách hàng mới, hay chi phí để bán được một số lượng sản phẩm mới bằng việc chia chi phí marketing năm cũ cho doanh số bán hàng thường niên (chẳng hạn như số khách hàng có được, số lượng sản phẩm được bán ra,...).

Bước tiếp theo đó là lấy con số vừa nhận được nhân với số sản phẩm mà bạn muốn bán ra hay số lượng khách hàng mà bạn muốn thu hút. Kết quả của phép tính đơn giản này sẽ đem lại cho bạn một ước tính sơ bộ về những gì bạn cần phải đầu tư để đáp ứng các mục tiêu bán hàng trong năm tiếp theo.

Và một kế hoạch marketing tuân thủ Nguyên tắc vàng AIDA

Sẽ thật thiếu sót nếu Kế hoạch marketing 7 bước - 1 ngày của bạn không tuân theo Nguyên tắc vàng AIDA. Đây là một bộ 5 yêu cầu cần có trong một chiến dịch marketing thành công mà bạn không thể bỏ qua khi xây dựng kế hoạch marketing: đó là A: get Attention (Lôi cuốn sự chú ý), I : hold Interest (Làm cho thích thú), D: create Desire (Tạo sự ham muốn) và A: lead to Action (Dẫn đến hành động mua hàng).

Sự chú ý, cảm giác thích thú và lòng ham muốn của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ của mình có thể chưa đủ để bạn có được một kế hoạch marketing thành công nhất. Điều quan trọng lúc này là dẫn đến hành động mua hàng của mọi người. Để làm được như vậy, bên cạnh sự độc đáo, bạn phải thể hiện được sự hữu ích của sản phẩm, tính toán xem mức giá nào sẽ phù hợp với túi tiền của khách hàng và nếu có thể được là phù hợp với phong tục, tập quán của họ.

Kết luận

marketing
Để kế hoạch marketing thành công cần một đội ngũ tốt


Như vậy là bạn đã có một “Kế hoạch marketing 7 bước - 1 ngày”. Nó không đến nỗi quá khó như bạn tưởng. Đương nhiên, bạn sẽ cần học hỏi thêm đôi chút về việc chọn phương tiện truyền thông, về thông điệp marketing thích hợp và về các chi phí liên quan,.... Nhưng bạn đừng cố gắng biến công việc xây dựng và phát triển kế hoạch marketing thành một nhiệm vụ nặng nề. Hãy nhớ quy tắc 80-20: 80% các kết quả của bạn sẽ đến từ 20% nỗ lực của bạn.
Chúc bạn có một kế hoạch marketing thành công nhất! 
Sưu tầm

Màu sắc tôn vinh nhãn hiệu

Quảng cáo 365 - Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng yếu tố màu sắc thực sự góp phần nâng cao nhận thức nhãn hiệu và đóng vai trò lớn trong các lựa chọn mua sắm của khách hàng. Nó cũng gợi mở trí nhớ và khích lệ cảm xúc.

Màu sắc tôn vinh nhãn hiệu của bạn
Màu sắc mang khích lệ cảm xúc và gợi mở trí nhớ

Ngay cả khi màu sắc nhãn hiệu của bạn đã hợp lý, đừng dừng lại ở đó. Hãy chắc chắn rằng những màu sắc bạn lựa chọn đang truyền tải một thông điệp thích hợp tới các khách hàng.
Lấy ví dụ ở logo công ty bạn. Xét về mặt cốt lõi của hình ảnh nhãn hiệu, nó gửi đi một thông điệp then chốt về sản phẩm hay dịch vụ của công ty bạn, hoặc ở một góc độ nào đó, nó tạo ra sự khác biệt giữa nhãn hiệu công ty bạn với các nhãn hiệu cạnh tranh khác. Mỗi một màu sắc đều mang trong mình một thông điệp riêng biệt. Điều này có nghĩa là nếu logo của bạn sử dụng bốn màu sắc, bạn đang gửi đi bốn thông điệp khác nhau trong cùng một lần. Thậm chí nếu các thông điệp là bổ sung cho nhau, chỉ một vài khách hàng có thể nhớ và liên tưởng tới tất cả các ý tưởng trong nhãn hiệu của bạn.
Một ví dụ khác đó là ở tấm danh thiếp kinh doanh, phần đầu đề thư hay các sản phẩm văn phòng phẩm khác. Không kể đến những nỗ lực nhãn hiệu cố kết, một tấm danh thiếp đa màu sắc có thể được xem là một lựa chọn tốt, nhưng càng nhiều màu sắc bạn sử dụng, yếu tố khác biệt sẽ càng ít đi. Bạn đang sử dụng màu sắc để củng cố các đặc tính nhãn hiệu, hay bạn đang gửi đi các thông điệp xung đột lẫn nhau? Một số công ty thành công có những cách thức sử dụng màu sắc nhãn hiệu của riêng mình. Trong tâm trí của người tiêu dùng, UPS là màu nâu. Trong thị trường nước giải khát, Coke là màu đỏ. Hơn nữa, màu xanh của IBM là khác hẳn so với màu xanh của Tiffany. Mỗi một công ty hàng đầu trên thị trường thường lựa chọn một màu sắc cụ thể đóng vai trò là màu sắc chủ đạo cho logo và hình ảnh nhãn hiệu của mình. Một vài công ty lựa chọn sự phối kết hợp của hai màu sắc, như FedEx với màu tía và màu da cam, song hiếm khi bạn thấy được một nhãn hiệu lớn được xây dựng trên nền tảng quá hai màu sắc cơ bản.
Ngoại lệ có thể là ở những công ty có sản phẩm hay dịch vụ khá đa dạng và có nội dung thiên về màu sắc, chẳng hạn như Skittles với bảy sắc cầu vồng của các hương vị hoa quả, hay các công ty in ấn. Bài học thất bại của một số hãng bia mới ở châu  u đã chứng tỏ cho tầm quan trọng của yếu tố đặc trưng trong màu sắc nhãn hiệu. Sau khi thành lập, nhiều hãng bia đã sử dụng màu xanh lá cây cho hình ảnh nhãn hiệu của mình. Đây là một lựa chọn sai lầm khi mà qua thời gian, nhãn hiệu của các công ty bia này không những không gây được ấn tượng mà có phần ngày một phai mờ hơn. Nguyên nhân xuất phát ở chỗ tại châu  u cũng như trên toàn thế giới, màu xanh lá cây đã quá in đậm trong tâm trí người tiêu dùng như là một màu đặc trưng của hãng nhãn hiệu bia Heineiken. Họ không mấy quan tâm tới những màu sắc tương tự và do đó, những nhãn hiệu có màu xanh lá cây sẽ không gây được sự chú ý nào cả. Rõ ràng, việc sử dụng màu sắc một cách riêng biệt sẽ là tốt nhất trong hình ảnh nhãn hiệu hay các dữ liệu tiếp thị.
John Williams, chủ tịch kiêm sáng lập viên LogoYes.com, trang web đầu tiên và lớn nhất thế giới về logo và nhãn hiệu công ty, đề xuất về việc xây dựng một bảng màu sắc hai thành phần cho hình ảnh nhãn hiệu bao gồm những màu chủ đạo cho logo cùng các văn phòng phẩm khác và những màu bổ sung cùng hình ảnh đồ hoạ phụ trợ cho trang web và các dữ liệu in ấn phức tạp hơn. Với 25 năm kinh nghiệm quảng cáo của mình, John đã xây dựng các chuẩn mực nhãn hiệu cho nhiều công ty trong danh sách Fortune 100 (100 công ty lớn nhất thế giới) như Mitsubishi, IBM, GM,…. Ông khuyên rằng trước khi lựa chọn một bảng màu sắc phù hợp cho việc xây dựng nhãn hiệu, bạn hãy quan tâm tới những vấn đề sau:

1) Các màu sắc có lôi cuốn những khách hàng mục tiêu của mình?

Theo John Williams, việc xây dựng màu sắc nhãn hiệu lôi cuốn còn là một phương thức tiếp thị hiệu quả. Tuy nhiên, nhiệm vụ này không mấy dễ dàng do có khá nhiều yếu tố khác nhau tác động. Cùng với thời gian, sản phẩm phải được khách hàng chấp nhận nên khi chọn màu biểu tượng cho sản phẩm đòi hỏi bạn phải có tầm nhìn sao cho màu sắc đó luôn mới mẻ, hiện đại trong con mắt khách hàng. Bạn hãy tính tới độ tuổi, giới tính, văn hoá và các yếu tố nhân khẩu học khác của các khách hàng mục tiêu.

2) Màu sắc chủ đạo của mình có riêng biệt?

Nó có nổi bật so với các nhãn hiệu cạnh tranh khác? Nếu nhãn hiệu của bạn nhỏ hơn, việc chia sẻ cùng màu sắc với những hãng dẫn đầu thị trường có thể là hợp lý lúc ban đầu. Song việc này rất dễ đẩy mạnh vị thế của các hãng dẫn đầu thị trường đó do sự nhầm lẫn của người tiêu dùng giữa nhãn hiệu của bạn với nhãn hiệu của hãng kia. Tốt nhất, hãy tạo dựng cho nhãn hiệu một màu sắc riêng biệt. Nhiều thập kỷ qua, màu đỏ luôn là đặc trưng của hãng bột ngọt Ajinomoto. Màu đỏ đó không hề thay đổi theo thời gian, thể hiện sự vững bền của công ty và của sản phẩm, đồng thời ăn sâu vào tâm trí của từ thế hệ khách hàng này đến thế hệ khách hàng khác.

3) Màu sắc mang ý nghĩa hay truyền tải thông điệp gì?

Ý nghĩa hay thông điệp của màu sắc cần thích hợp với nhãn hiệu của bạn. Mỗi sản phẩm đều có mối liên hệ nhất định với màu sắc nào đó. Nhất là những sản phẩm nổi tiếng thường được nhớ tới và nhận ra qua dấu hiệu chủ yếu là màu sắc.

4) Màu sắc chủ đạo có hợp thời hay đảm bảo sự bền vững nhất định?

Yếu tố thời trang hay xu hướng luôn thích hợp với các khách hàng trẻ tuổi, nhưng có thể không mấy dễ dàng với những khách hàng lớn tuổi hơn. Do vậy, tuỳ từng khác hàng mục tiêu, yếu tố màu sắc sẽ có thay đổi cho thích hợp. Một điều cần chú ý khác đó là màu sắc nhãn hiệu cần có sự bền vững, chứ không thể thay đổi liên tục được. Phụ thuộc vào mục tiêu kinh doanh, bạn có thể lựa chọn cho mình những màu sắc nhất định và phù hợp. Song quan trọng ở chỗ bạn cần đảm bảo tính ổn định cho màu sắc đó. Hàng trăm năm qua, chúng ta luôn dễ dàng nhận thấy trên thị trường những biểu tượng màu sắc cố định như màu vàng của chè Lipton, màu đỏ của Coca Cola…

5) Những màu sắc trực tuyến tương ứng sẽ là gì?

Sau khi xác định bảng phối màu sắc, thách thức tiếp theo của bạn sẽ là đảm bảo một sự mô phỏng tối ưu các màu sắc nhãn hiệu của bạn trên tất cả các phương tiện truyền thông khác nhau. Bạn cần giữ vững sự trung thành với các màu sắc nhãn hiệu đã lựa chọn trong các bản mô phỏng và nhớ rằng chính yếu tố xuyên suốt này đóng vai trò thiết yếu để lôi kéo người tiêu dùng. Một cách khá đơn giản, càng nhiều màu sắc không có nghĩa là càng lôi cuốn hơn. Màu sắc nên tách biệt với nhãn hiệu, và sẽ đóng vai trò khích lệ sự liên tưởng tới nhãn hiệu. Công ty nào lựa chọn cho mình những màu sắc nhãn hiệu một cách chiến lược và sử dụng chúng một cách xuyên suốt chắc chắn sẽ có những tương lai sáng lạn.

Tuesday, July 30, 2013

Quảng cáo truyền hình - Ưu và khuyết điểm

Quảng cáo 365 - Quảng cáo trên truyền hình cho phép bạn thể hiện và nói cho số lượng khan giả rộng lớn biết về công ty, sản phẩm hay dịch vụ của bạn. Bạn có thể trình bày cách sản phẩm hay dịch vụ của bạn hoạt động và quy trình sản xuất, từ đó các khách hàng tiềm năng biết phải tìm kiếm sản phẩm gì lúc mua hàng

Theo nghiên cứu mới nhất của trường Đại học Ball State về thói quen sử dụng các phương tiện truyền thông của người Mỹ, mặc dù Internet gia tăng dần trong dân số trong suốt vài năm gần đây, tivi vẫn giữ ưu thế bình quân trong các gia đình tại Hoa Kỳ. Trung bình, người dân nói chung dành hơn 4 giờ 30 phút mỗi ngày ngồi trước TV, làm cho xem TV trở thành thú vui giải trí hiện đại phổ biến nhất. Vậy liệu có phải quảng cáo trên truyền hình cũng là hình thức quảng cáo hiệu quả nhất?
quảng cáo truyền hình
Tiếp cận số lượng lớn khách hàng tiềm năng qua kênh truyền hình

 
Quảng cáo trên truyền hình cho phép bạn thể hiện và nói cho số lượng khan giả rộng lớn biết về công ty, sản phẩm hay dịch vụ của bạn. Bạn có thể trình bày cách sản phẩm hay dịch vụ của bạn hoạt động và quy trình sản xuất, từ đó các khách hàng tiềm năng biết phải tìm kiếm sản phẩm gì lúc mua hàng. Quảng cáo thường dùng nhiều điểm tiếp xúc nhằm gây ảnh hưởng một cách hiệu quả lên hành vi mua hàng của người tiêu dùng. 
Quảng cáo truyền hình là phương tiện phổ biến dành cho những doanh nhân kể từ lần đầu tiên TV có mặt trong phòng khách. Cùng với sự có mặt của truyền hình cáp, chi phí thấp hơn cho sản xuất và cơ hội tiếp cận các thị trường nhỏ hơn, nhiều chỉ tiêu hơn, làm cho việc quảng cáo trên TV biến thành một lựa chọn khả thi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 
Để tạo được một mẩu quảng cáo hiệu quả trên TV, điều đầu tiên phải có kịch bản tốt nhấn mạnh vào sản phẩm hay dịch vụ. Quảng cáo cũng cần phải được làm hiệu quả, và vì lý do này, thường sẽ tốt hơn nếu tranh thủ các dịch vụ của một công ty quảng cáo, công ty này có thể giúp bạn thiết kế một chiến dịch hoàn chỉnh.
Một vài ưu điểm đối với doanh nghiệp nhỏ khi quảng cáo trên TV:
 
quảng cáo truyền hình
Quảng cáo truyền hình chuyển tải thông điệp bằng cả hình ảnh, âm thanh tạo cảm xúc và sự tin tưởng
 
TV có nhiều khán giả hơn báo chí và radio
Quảng cáo đến với khán giả khi họ đang tập trung nhất
Quảng cáo trên TV giúp bạn chuyển tải thông điệp với ánh sáng, âm thanh và cảm xúc, có thể tạo sự tín nhiệm đối với công ty, sản phẩm hay dịch vụ của bạn
Quảng cáo cho bạn cơ hội sáng tạo và mang cá tính của bạn vào mẩu quảng cáo, sẽ đặc biệt hiệu quả đối với các doanh nghiệp nhỏ chủ yếu dựa vào khách quen.
 
Một vài khuyết điểm khi quảng cáo trên TV
Quảng cáo sản phẩm của bạn trên TV cũng có một vài khuyết điểm. Trừ những thời điểm nửa đêm trong hệ thống truyền hình cáp tại địa phương của bạn, không có phương tiện quảng cáo nào nuốt tiền của bạn nhanh bằng TV. Sản xuất một mẩu quảng cáo, bao gồm thuê người viết kịch bản, diễn viên, biên tập film, hoặc công ty quảng cáo, chỉ là bước đầu tiên. Bạn phải trả tiền phát sóng, và nghiên cứu cho thấy quảng cáo trên TV có hiệu quả nhất khi được phát đi phát lại, bạn sẽ muốn quảng cáo của mình được phát nhiều lần. Vì thế, các đài truyền hình có giá phát sóng khiến bạn lâm vào cảnh khổ.
 
Một khuyến điểm khác là mức độ khó khăn để thay đổi. Trong khi với quảng cáo trên báo, việc cập nhật giá cả hay khuyến mãi đặc biệt thường chỉ đơn giản là thay đổi các phiếu mua hàng, còn đối với quảng cáo trên TV là bạn phải cập nhật kịch bản và quay lại toàn bộ mẩu quảng cáo, điều này sẽ tốn thêm tiền.
 
Cũng rất khó khăn để tiếp cận khán giả chủ yếu của bạn với quảng cáo truyền hình, mặc dù vẫn có một vài cách có thể giải quyết vấn đề này. Đối với những ai mới bắt đầu, hãy nghĩ đến đối tượng khách hàng của bạn là ai trước khi bạn xây dựng mẩu quảng cáo và lựa chọn giờ phát sóng. Có phải phần lớn đối tượng khách hàng của bạn nói tiếng Tây Ban Nha? Nếu phải, bạn nên tìm cách mua giờ phát sóng trên một kênh nói tiếng Tây Ban Nha như Telemundo. Và nếu bạn đang kinh doanh xe đẩy trẻ em thì bạn tốt hơn hết nên mua những giờ phát sóng trong ngày mà các bà mẹ nội trợ có thể xem mẩu quảng cáo của bạn.
Sưu tầm

Kinh nghiệm quảng cáo của tập đoàn Dentsu- Nhật Bản

Quảng cáo 365 - Tập đoàn Dentsu, Nhật Bản đã để lại cho chúng ta một cái nhìn về tương lai của quảng cáo.


Đứng vị trí thứ năm trong danh sách các tổ chức quảng cáo lớn nhất thế giới với lợi nhuận ròng trên 2 tỷ USD/năm, song tập đoàn Dentsu, Nhật Bản để lại cho chúng ta một cái nhìn về tương lai của quảng cáo.
Dentsu luôn lịch thiệp từ chối công bố tên các khách hàng của hãng, một nghiên cứu nhỏ đã hé lộ rằng những cái tên lớn nhất trong danh sách khách hàng của Dentsu bao gồm mỹ phẩm Shiseido và Toyota .
Masako Okamura là một trong những nữ giám đốc sáng tạo đầu tiên của Dentsu.
Sau khi bắt đầu công việc tại bộ phận PR, Okamura trở thành copywriter vào năm 1992. Cô thực sự tự hào khi được làm việc với Akira Odagiri, được xem là một trong những bậc thầy sáng tạo người Nhật Bản và hiện đang phụ trách bộ phận sáng tạo tại hãng Ogilvy & Mather, Nhật Bản.
Okamura được đề bạt lên vị trí giám đốc sáng tạo vào năm 2001, đưa cô trở thành một trong những thành viên cao cấp nhất của Dentsu – nơi mà có sự góp mặt đội ngũ khoảng 800 nhân viên sáng tạo.
Một ngày làm việc của Okamura bắt đầu khoảng 9 giờ sáng và có thể kết thúc vào bất cứ thời gian nào từ 4 giờ chiều đến 4 giờ sáng hôm sau. "Điều đó bình thường đối với hầu hết các nhân viên sáng tạo trên toàn thế giới", Okamura cho biết. Mặc dù các giám đốc sáng tạo của Dentsu có những vị trí làm việc như nhau, Okamura được ngắm toàn cảnh núi Phú Sỹ từ bàn làm việc của cô.
Theo Okamura, tính sáng tạo ngày nay góp phần quan trọng trong thành công của một quảng cáo. Chúng ta sẽ không thể dành thời gian chú ý tới những quảng cáo mang tính giới thiệu suông nữa. Chúng ta cần tới sự giải trí, thư giãn và có phần hài hước. Nhiệm vụ của quảng cáo là nắm bắt tâm lý này của mọi người thông qua việc thúc đẩy trí sáng tạo mạnh mẽ nhất. Tương lai của quảng cáo nằm ở tính sáng tạo trong đấy.
"Trên bàn tôi là tất cả những kiểu đồ chơi vui vẻ từ khắp nơi trên thế giới cũng như hàng chồng ảnh khác nhau được gửi đến từ các công ty sản xuất nước ngoài, và các nhân viên trẻ có thể ghé qua để xem liệu có điều gì gây cảm hứng cho họ", Okamura nói.
Quy trình sáng tạo là một nỗ lực chung của tập thể đòi hỏi nhiều cuộc họp bàn bạc phát huy chất xám tập thể mà như Okamura thì: "Trong tập thể của tôi, một nguyên tắc thật khó khăn đó là các cuộc họp bị giới hạn trong 90 phút".
Okamura thừa nhận rằng có một vài khía cạnh trong hoạt động quảng cáo của người Nhật Bản có thể làm nảy sinh nhiều trở ngại cho sự sáng tạo, ví dụ việc dựa dẫm quá nhiều vào sự nổi danh. Mặc dù vậy, theo Okamura, vẫn có chỗ cho trí sáng tạo trong các hạn chế này.
Ví dụ, trong sự bùng nổ các quảng cáo hài hước, một chiến dịch mới đây mà Dentsu thực hiện cho hãng Shiseido thực sự khá đặc biệt khi tung ra đoạn quảng cáo dài chưa đầy 15 giây nhưng thế hiện rõ khuôn mặt của hơn 50 diễn viên hài trẻ tuổi khác nhau. Chính thành công này đã đưa nhãn hiệu Shiseido vào Sách kỷ lục Guinness.
Miêu tả ngắn gọn về các quảng cáo như vậy, Okamura chỉ ra rằng: "Giới trẻ có độ tuổi dưới 25 hiện nay có thể lĩnh hội được các ý tưởng hình ảnh trong một vài giây. Kiểu quảng cáo này phát huy hiệu quả khá tốt trên điện thoại di động. Nó đã được áp dụng tại phương Tây, và giờ đây bắt đầu được khai phá ở Nhật Bản".
Trí sáng tạo quả không có điểm dừng, một phương pháp khác đang nổi bật lên. Vào năm 2005, một đoạn quảng cáo có tên "Husky Girl" đã khá thu hút sự chú ý của mọi người. Quảng cáo khuyếch trường cho sân vận động Ajinomoto Stadium khổng lồ vùng ngoại ô Tokyo kéo dài không dưới 90 giây.
Quảng cáo quy tụ rất nhiều cô gái trẻ đẹp – tất cả với giọng nói của những người lái xe tải đường dài. Vào một thời điểm, tất cả các cô gái cùng hét to và chúc mừng sân vận động. Sự việc diễn ra thật hài hước và ám chỉ tới một định hướng mới trong quảng cáo của người Nhật Bản.
Trong khi những quảng cáo dài và có cốt truyện dần dần phát triển, những quảng cáo truyền thống nào còn sống sót vẫn được mọi người đánh giá rất cao.
Okamura quan sát rằng tại những thị trường khác, người tiêu dùng có thể khá đa nghi đối với quảng cáo, nhưng tại Nhật Bản, người dân vẫn là fan hâm mộ của quảng cáo. Thậm chí có cả một tạp chí riêng cho lĩnh vực này được gọi là CM Now (CM là từ viết tắt của "Commercial" – Quảng cáo thương mại).
Xã hội Nhật Bản đang thay đổi – và người tiêu dùng đã có những phản hồi ngay tức khắc. Sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng vào thập niên 90, các kiểu hành vi phân biệt giới tính dường như không còn nữa.
Nam giới trở nên ít bị ám ảnh nghề nghiệp hơn, mang yếu tố tâm linh nhiều hơn. Trong khi phụ nữ trở nên độc lập hơn. Họ có tiền riêng của mình và chi tiêu tự do hơn. Vì thế, phụ nữ trong các quảng cáo được phác họa độc lập, cả trên phương diện cảm xúc và kinh tế.
Thói quen nghe nhìn của người tiêu dùng cũng đang thay đổi đáng kể. "Mười năm trước đây, tôi nghĩ rằng có một xu hướng giảm dần thời lượng xem tivi vào mỗi buổi tối. Nhưng tivi đã thay đổi, giờ đây mọi người có thể xem tivi trên máy tính xách tay hay trên điện thoại di động. Vì vậy, chúng ta cũng chứng kiến một sự thay đổi của các quảng cáo thương mại theo sự phát triển của các phương tiện truyền thông", Okamura cho biết.
Và người tiêu dùng Nhật Bản nói riêng và toàn thế giới nói chung sẽ không cảm thấy bị săn đuổi bởi các hãng quảng cáo. Okamura khẳng định: "Quảng cáo sẽ trở thành một dạng văn hoá mới trong mỗi Quốc Gia . Tương lai, nó không khác biệt mấy với các phương thức giải trí khác".
Theo bwportal/ MarketingProfs

5 sự hiểu nhầm hoang tưởng về SEO

Quảng cáo 365 - Google luôn là công cụ lôi kéo được nhiều chủ sở hữu trang web mới – cho dù thế nào đi nữa thì cuộc chiến thứ hạng tìm kiếm vẫn diễn ra thường xuyên. Hầu hết các nguyên nhân để mang đến thành công là nhờ việc xây dựng những liên kết có chất lượng và/hoặc những độc giả trung thành.

1. Kết quả 24 giờ

Không ai có thể thấy được kết quả của công việc này chỉ trong vòng 24 giờ. Có rất nhiều lời quảng cáo từ phía các SEO mũ đen như “Lên top 10 chỉ trong vòng 8 giờ”. Theo kinh nghiệm của những chuyên gia SEO lâu năm, những “ông lớn” trong thị trường tìm kiếm – Google, Yahoo, MSN – đều mất tới cả ngày chỉ để đặt chỉ mục các trang web.
5 sự hiểu nhầm hoang tưởng về SEO
5 sự hiểu nhầm hoang tưởng về SEO

Google luôn là công cụ lôi kéo được nhiều chủ sở hữu trang web mới – cho dù thế nào đi nữa thì cuộc chiến thứ hạng tìm kiếm vẫn diễn ra thường xuyên. Hầu hết các nguyên nhân để mang đến thành công là nhờ việc xây dựng những liên kết có chất lượng và/hoặc những độc giả trung thành.
Tất cả những người làm SEO nói đến kết quả mang lại nhanh chóng là do họ phát tán các liên kết của trang web với tốc độ cao và điều này có thể mang đến kết quả ngược lại do các cỗ máy tìm kiếm liệt họ vào những trang web spam và loại bỏ khỏi các thuật toán tìm kiếm. Điều này không mang lại lợi ích lâu dài cho một trang web muốn vươn lên thứ hạng cao trong mắt các công cụ tìm kiếm.

2. Vị trí top là mãi mãi

Không có gì có thể đảm bảo vị trí của một trang web trước thứ hạng của công cụ tìm kiếm nếu như chất lượng của trang web vẫn chỉ dậm chân tại chỗ, và trang thứ hạng của trang web đó có thể mất bất cứ lúc nào vào tay các đối thủ của mình. Đây là điều chắc chắn bởi các trang khác luôn tìm cách để cải thiện thứ hạng của mình trong con mắt của công cụ tìm kiếm. Và cũng không có sự chắc chắn nào cho các vị trí trong trang kết quả đầu tiên.
Đối với những trang web mới, cần phải có một vài thủ thuật nhỏ để nhanh chóng đạt được những thứ hạng nhất định. Nhưng để lọt vào top 10 trong bảng kết quả thì đó là một công việc vô cùng khó khăn. Một vị trí tốt là một trang web có khởi đầu chậm chạp và lớn lên cùng với sự phát triển của trang web.

3. Meta Tags

Một số “chuyên gia” SEO sẽ bám lấy lời đồn về để đẩy nhanh tốc độ thăng hạng của trang web. Trong khi đó điều này được chứng minh rằng một số công cụ tìm kiếm phổ biến hiện nay (Google, Yahoo, MSN) đã bỏ qua phần nội dung này, và thay vào đó là dựa vào nội dung đặt trong trang web. Đã có quá nhiều các nhà quản trị web spam các từ khóa của mình vào thẻ này một cách vô nghĩa.
Thay vì việc đưa từ khóa vào thẻ , người làm SEO có thể tối ưu các từ khóa vào hoặc viết lại các Url để các công cụ tìm kiếm có thể dễ dàng hiểu và nhận biết từ khóa hơn. Các thẻ meta tag gần như sẽ trở nên vô nghĩa hoàn toàn trong thời gian tới.

4. Đăng ký vào các công cụ tìm kiếm

Đã có rất nhiều lời quảng cáo tương tự như: “Chúng tôi sẽ đăng ký trang web của bạn lên 2.000 công cụ tìm kiếm”. Tất nhiên là việc đăng ký trang web lên càng nhiều danh bạ hoặc các công cụ tìm kiếm là tốt nhưng chúng ta cần phải nhớ rằng, mục tiêu chính vẫn là Google và hai công cụ tìm kiếm khác là Yahoo và MSN (hiện giờ là Bing). Với 3 công cụ tìm kiếm này, có tới 99% người dùng sử dụng để tìm kiếm những thứ mà họ muốn và điều đó có nghĩa là 1.997 công cụ tìm kiếm còn lại đã đăng ký là vô nghĩa.
Nếu có thể đưa trang web lên top 10 kết quả trả về của một công cụ tìm kiếm nhỏ thì các công cụ tìm kiếm lớn hơn sẽ coi trọng hơn là những backlink có giá trị. Vì vậy, việc đăng ký vào các công cụ tìm kiếm nhỏ vẫn mang lại những giá trị rất mơ hồ cho trang web.
Như vậy, việc đăng ký trang web vào các công cụ tìm kiếm nhỏ tuy không gây tác hại nhưng bạn cũng đừng đặt quá nhiều kỳ vọng có thể mang lại những kết quả khả quan hơn cho thứ hạng của trang web tại các công cụ tìm kiếm lớn. Vậy nên đừng hy vọng vào các phần mềm gửi lên thư mục hay công cụ tìm kiếm hoặc tệ hơn thuê người nào đó làm điều này.

5. Hay link tốt hơn link hay

Tất cả những người đã bước chân vào nghề SEO đều hiểu rõ, các liên kết có thể giúp cho thứ hạng của trang web được tăng cao trong các công cụ tìm kiếm. Ngày nay, các công cụ tìm kiếm đã được cải tiến thông minh hơn và coi trọng sự phù hợp của nội dung với từ khóa tìm kiếm hơn là quá nhiều liên kết. Một trang web có quá nhiều liên kết nhưng lại không có nội dung phù hợp với từ khóa đó sẽ chỉ thăng hạng nhanh chóng trong một thời gian ngắn rồi sau đó sẽ nhanh chóng chìm vào lãng quên hoặc bị loại khỏi công cụ tìm kiếm.
Người quản trị có thể nhanh chóng phát tán các liên kết của trang web mình tới rất nhiều trang web khác, nhưng một liên kết thực sự có giá trị phải là một liên kết tới những trang web có vị trí cụ thể với những nội dung tương đồng.
(Theo ITCENTER)

Thực trạng nghiên cứu thị trường tại Việt Nam

Quảng cáo 365 -Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nghiên cứu thị trường là công cụ thiết yếu, là điều kiện cần để đưa sản phẩm tiếp cận thị trường thành công. Bởi thế, hầu hết doanh nhân đều cho rằng, “phải bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mình có” và nghiên cứu kỹ thị trường là yếu tố góp phần vào sự thành công của doanh nghiệp.

Tin marketing - Thực trạng nghiên cứu thị trường tại Việt Nam
Nghiên cứu thị trường là một phần quan trọng trước khi ra quyết định marketing
Bà Phạm Thị Việt Nga, Tổng giám đốc Công ty CP Dược Hậu Giang, cho rằng, trong điều kiện khó khăn, doanh nghiệp có thể siết chặt công tác quản lý, giảm tối đa chi phí để tồn tại và phát triển, nhưng vẫn phải đầu tư cho nghiên cứu thị trường.
“nghiên cứu thị trường để cho ra đời sản phẩm mới, mà sản phẩm đó mang tính khả thi, quyết định sinh mạng của doanh nghiệp thì nhất thiết phải đầu tư, nếu không sẽ lạc hậu”, bà Nga nói.
Theo các chuyên gia, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp luôn bắt nguồn từ việc khai thác thành công các cơ hội thị trường mới. Vì thế, doanh nghiệp cần nghiên cứu để hiểu khách hàng, đối thủ cạnh tranh cũng như để xác định các cơ hội của thị trường. Thế nhưng, nhiều năm trước, các công ty chuyên về nghiên cứu thị trường đã đặt vấn đề này với doanh nghiệp nhưng không nhận được sự quan tâm.
Ông Phạm Phú Ngọc Trai, Chủ tịch Công ty Tư vấn Hội nhập Toàn cầu (GICB), cho rằng, khi nền kinh tế chuyển đổi từ bao cấp sang thị trường và từ thị trường chuyển sang hội nhập thì có những giai đoạn mà nghiên cứu thị trường không phải là bước quan trọng.
Tuy nhiên, hiện nay, sự cạnh tranh của thị trường ngày càng khốc liệt khiến nghiên cứu thị trường trở thành một công cụ hiệu quả trong quá trình xác định vị thế cạnh tranh và phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
Thấy được tầm quan trọng của nghiên cứu thị trường, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng chịu đầu tư. Tuy chưa có con số thống kê chính thức từ các cơ quan chức năng, nhưng theo các công ty chuyên về lĩnh vực này thì khoản chi cho nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp Việt Nam là rất nhỏ so với quảng cáo.
Có nhiều nguyên nhân khiến doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư mạnh cho công tác nghiên cứu thị trường. Thứ nhất là do thiếu vốn. Khó khăn trong kinh doanh những năm gần đây càng khiến doanh nghiệp không dám mạo hiểm đầu tư. Thứ hai, doanh nghiệp chưa chuyên nghiệp trong việc thực hiện công tác nghiên cứu thị trường.
Trong khi doanh nghiệp và tập đoàn đa quốc gia kiểm nghiệm kết quả một cách dễ dàng thì doanh nghiệp Việt Nam lại gặp rất nhiều khó khăn ở khâu này. “Khi sản phẩm mới tung ra thị trường, nếu người tiêu dùng không đón nhận, các tập đoàn đa quốc gia sẽ xác định được lỗi ở khâu nào, vì quy trình nghiên cứu thị trường đã được xác lập rất rõ ràng. doanh nghiệp Việt Nam thì ngược lại, rất lúng túng khi sản phẩm không đạt được mục tiêu đề ra.
Đôi khi khâu nghiên cứu thị trường rất tốt nhưng các khâu phân phối, quảng bá sản phẩm làm chưa tới cũng dễ dẫn đến thất bại. Tuy vậy, các doanh nghiệp Việt Nam thường không nhận ra điều này, mà lại đánh đồng các nguyên nhân về một mối”, ông Trai phân tích.
Ngoài những nguyên nhân trên, do chưa có ý thức theo đuổi kế hoạch một cách bài bản, lâu dài nên doanh nghiệp cũng không “nuôi dưỡng đội ngũ để tiếp tục phát triển”, dẫn đến dễ bị tụt hậu. Và một khi đã bị rớt lại đằng sau thì doanh nghiệp sẽ càng nản lòng hơn khi phải đầu tư từ đầu.
Tuy nhiên, công ty nào đã chịu đầu tư thì sẽ gặt hái được kết quả khả quan. Dược Hậu Giang là một điển hình. Theo bà Nga, đơn vị này đã đầu tư nguồn kinh phí khá lớn cho nghiên cứu thị trường.
Bình quân, mỗi năm công ty tung ra thị trường khoảng 30 – 40 sản phẩm mới, trong đó khoảng 10 sản phẩm phát triển tốt, có doanh thu cao, còn những sản phẩm còn lại được tiếp tục theo đuổi và phát triển. Tuy thời gian và mức đầu tư khác nhau, nhưng theo lãnh đạo đơn vị này, chưa có sản phẩm nào có đầu tư nghiên cứu thị trường mà gặp thất bại.
“Để làm được điều này, đầu tiên phải có ý tưởng, sau đó đặt vấn đề với bên mình sẽ thuê nghiên cứu thị trường. Tiếp đó là thu thập ý kiến khách hàng xem ý tưởng có khả thi hay không, nhu cầu ở mức nào, có hiệu quả và có cần phải đầu tư hay không. Sau khi có được tất cả những thông tin này thì hệ thống nghiên cứu tại nhà máy bắt đầu đưa ra những công thức cho sản phẩm mới’, bà Nga tiết lộ về quy trình ra sản phẩm mới của Dược Hậu Giang.
Theo ông Trai, để nghiên cứu thị trường thành công, bên cạnh xác định mục tiêu và đầu tư bài bản, doanh nghiệp còn không được “ngủ quên trên chiến thắng”. Phải có chiến lược, xác lập rõ ràng các khâu, theo đuổi và phát triển các dòng sản phẩm mới đến cùng mới có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Bởi, “các công ty, tập đoàn nước ngoài khi vào thị trường Việt Nam thường tiến chậm lúc đầu, nhưng sẽ đảo ngược tình thế và thống lĩnh thị trường ở giai đoạn sau”, ông Trai chia sẻ kinh nghiệm rút ra từ những năm làm việc cho các tập đoàn đa quốc gia.
theo doanhnhansaigon.vn

Monday, July 29, 2013

Quảng cáo radio

Quảng cáo 365 - Được coi là “rạp hát của tư duy”, đài phát thanh sẽ đưa những thông điệp quảng cáo của bạn tới hàng triệu khách hàng tiềm năng với chi phí thấp hơn truyền hình rất nhiều.

quảng cáo radio, vov giao thông
Radio là kênh truyền thông được nhiều doanh nghiệp ưa thích để quảng cáo thương hiệu, đặc biệt trong giờ cao điểm

Trước tốc độ bùng nổ thông tin mạnh mẽ, kênh Truyền thanh dường như dần bị lãng quên trong cuộc sống hiện đại. Nhưng vẫn còn một lượng không nhỏ khán giả giữ thói quen nghe radio khi làm việc, di chuyển trên đường hay cả khi nghỉ ngơi…
Chính vì vậy, kênh truyền thông Radio là một lựa chọn khôn ngoan và hiệu quả cho những doanh nghiệp có ngân sách tiết kiệm mà vẫn đem lại hiệu quả bất ngờ.
Chúng tôi sẽ mang đến cho bạn những loại quảng cáo trên Truyền thanh phù hợp nhất với sản phẩm của chính bạn:
  • Live Mention (Đề cập trực tiếp): Một tình huống đối thoại ngắn từ 60 - 120s giữa các phát thanh viên, nội dung đề cập đến sản phẩm. Đoạn đối thoại này nằm trong chương trình, hoàn toàn tự nhiên và ngắn gọn.
  • Radio AdsRadio Trailer: những tổ hợp âm thanh cố định, bao gồm tiếng nói, âm nhạc và tiếng động … với một kịch bản sẵn nhằm quảng bá hoặc giới thiệu một sản phẩm mới.
  • Với chuyên mục, chương trình có tài trợ là thời lượng phát sóng được tài trợ nhằm quảng bá tên tuổi và truyền thông khác. Tên đối tác tài trợ sẽ xuất hiện ngay trong đoạn nhạc hiệu và phần giới thiệu mào đầu, chào kết của phát thanh viên.
    quảng cáo vov giao thông
    Vov giao thông hiện là kênh phát thanh được nhiều người quan tâm nhất

Các thương hiệu ‘mẹ-con’ đình đám nhất ngành ôtô thế giới

Quảng cáo 365 - Mỗi hãng xe lớn đều thiết lập hoặc thâu tóm những thương hiệu con mà giá trị và độ lan tỏa cũng đình đám không kém.

 1. BMW – Rolls-Royce

Thời gian gần đây Rolls-Royce là cái tên xe sang được nhắc đến khá nhiều ở Việt Nam bởi hãng xe này vừa “chân ướt chân ráo” thiết lập showroom tại Hà Nội.
 Các thương hiệu mẹ con đình đám nhất ngành ôtô thế giới
Rolls-Royce là sự kết hợp của Frederick Royce và Charles Rolls. Royce là một nhà chuyên sản xuất đồ điện, đến năm 1904 cho ra đời chiếc xe hơi đầu tiên. Rolls là con trai một nam tước, rất mê xe và được ví như Lewis Hamilton thời bấy giờ vì thích thử xe tốc độ. Xe hơi của Royce khiến Rolls thích thú, từ đó Rolls-Royce ra đời, Royce sản xuất, Rolls bán.
Ra đời năm 1916, công ty BMW, viết tắt của Bayerische MotorenWerke (tiếng Anh có nghĩa là Bavarian Motor Worksđược thành lập với mục đích sản xuất ôtô xe máy. Năm 1998, BMW chính thức sở hữu Rolls-Royce và trẻ hóa độ tuổi của đối tượng khách hàng chính.

2. Mercedes – Maybach

Các thương hiệu mẹ con đình đám nhất ngành ôtô thế giới
Maybach 62S.
Một cặp đôi nữa đến từ Đức. Mercedes được biết đến với những chiếc sedan sang trọng bậc nhất, hướng tới đối tượng khách hàng doanh nhân, những người có danh vị, tiền tài. Nhưng có vẻ Mercedes vẫn ở chiếu dưới một nấc so với Rolls-Royce hay Bentley, vì thế Maybach với những chiếc xe xa xỉ được Mercedes phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, Maybach không thành công như mong đợi, doanh sốẫu 57 và 62 khá thấp, do đó Mercedes quyết định khai tử thương hiệu này bắt đầu từ năm 2013, thay thế vào đó là mẫu S600 Pullman.

3. Volkswagen

34 Các thương hiệu mẹ con đình đám nhất ngành ôtô thế giới
Audi Q7.
Tập đoàn khổng lồ nước Đức hiện đang sở hữu những thương hiệu lớn như Volkswagen, Bentley, Audi, Lamborghini, Bugatti, Porsche, Ducati. Trong đó Ducati và Lamborghini dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Audi. Thành lập năm 1937, VW dần dần thâu tóm tất cả những hãng xe lớn như Audi năm 1966, Bentley năm 1998, Bugatti năm 2000 và Porche năm 2012.

4. Toyota – Lexus

Các thương hiệu mẹ con đình đám nhất ngành ôtô thế giới
Lexus LS460 2013.
Chính thức ra đời từ 1937, Toyota là cái tên đọc lái từ Toyoda, người sáng lập ra hãng. Toyota có 8 nét trong cách viết tiếng Nhật, theo quan niệm thì đó là con số đẹp. Trải qua gần 8 thập kỷ, Toyota đang trở thành một trong những hãng xe lớn nhất thế giới.
Lexus được Toyota ra đời năm năm 1989 tại triển lãm ôtô Detroit nhưng trước đã được “thai nghén” từ năm 1983 bởi 4.000 con người. Trải qua hơn 20 năm có mặt trên thị trường, Lexus khẳng định là một thương hiệu sang trọng kết hợp Á-Âu.

5. GM-Cadillac

Các thương hiệu mẹ con đình đám nhất ngành ôtô thế giới
Cadillac CTS Coupe.
Tập đoàn ôtô khổng lồ nước Mỹ với những thương hiệu con Cadillac, Chevrolet, Buick, Opel, Vauxhall…GM là hãng có doanh số ôtô hàng đầu thế giới liên tục trong 77 năm từ 1931 tới 2007. Giai đoạn năm 2009 GM gặp khủng hoảng nợ, dù đã được chính phủ cứu trợ nhưng hãng xe vẫn buộc tuyên bố phá sản.
Cadillac ra đời từ năm 1902, tới năm 1907 thì bị GM mua lại, chính thức trở thành nhánh sản xuất xe sang củ hãng. Những chiếc sedan của Cadillac luôn mang tới nhiều cảm xúc cho người mê xe bởi vẻ đẹp kết hợp giữa tính thực dụng và sự sang trọng, đẳng cấp.

6. Honda – Acura

Các thương hiệu mẹ con đình đám nhất ngành ôtô thế giới
Acura MDX.
Honda thành lập năm 1948 bởi Soichiro Honda. Ban đầu công ty chỉ sản xuất xe máy và xe đạp gắn máy (moped). Hãng bắt đầu sản xuất xe hơi vào năm 1960 chủ yếu dành cho thị trường Nhật Bản. Dù “sinh sau đẻ muộn” nhưng Honda phát triển khá nhanh, trở thành một trong những hãng xe hơi hàng đầu thế giới.
Nhãn hiệu xe cao cấp Acura ra đời vào năm 1986 tại thị trường Bắc Mỹ và Hồng Kông. Acura là nhãn hiệu xe sang đầu tiên của Nhật có mặt tại Bắc Mỹ, mở đường cho Lexus và Infiniti thâm nhập.

7. Nissan – Infiniti

Các thương hiệu mẹ con đình đám nhất ngành ôtô thế giới
Infiniti G35 Sport Coupe.
Nissan thành lập năm 1933, cùng với Toyota, Honda lập thành bộ ba vững chắc của nền công nghiệp ôtô Nhật Bản, đối đầu với ba ông lớn của Mỹ là GM, Ford và Chrysler.
Infiniti là nhãn hiệu xe sang dành riêng cho thị trường Bắc Mỹ mà Nissan ra đời từ năm 1989 với mẫu sedan Q45 và coupe M30. Trái ngược với nhiều ý kiến cho rằng Infiniti xuất hiện khi đã có Acura của Honda và Lexus của Toyota sẽ kéo cả ba cùng chìm, nhưng ngược lại cả ba đều phát triển mạnh mẽ.

Kiếm hàng chục triệu đồng mỗi tháng từ kinh doanh online

Lập gian hàng riêng trên các website và giới thiệu sản phẩm ở mạng xã hội, anh Hào kiếm khoảng 50 triệu đồng một tháng qua việc bán quần áo trẻ em.

Anh Hào, ở quận 4 (TP HCM), chuyên bán quần legging cho trẻ nhỏ qua mạng từ 6 năm nay. Chỉ tính riêng khoản doanh thu có được nhờ rao bán trên mạng xã hội, mỗi tháng anh có 15-20 triệu đồng. Phần thu nhập từ việc lập gian hàng trên website chuyên về mua bán cũng tròm trèm 20-30 triệu đồng.
Ưu điểm của bán hàng qua mạng là chi phí thuê mặt bằng ảo thấp, khoảng 3,5-4 triệu đồng một tháng, chỉ bằng nửa, thậm chí một phần ba so với mở một cửa hàng diện tích khiêm tốn ở quận Bình Thạnh, Gò Vấp... Ngoài ra, kinh doanh online tiết kiệm chi phí thuê nhân viên, vốn đầu tư ban đầu ít, nhưng cái khó là cần tạo sự khác biệt so với các gian hàng khác.
Anh còn đăng ký dịch vụ trả tiền theo số lần hiển thị mẫu quảng cáo trên Facebook nhằm thu được nhiều khách hàng hơn, đồng thời lồng thêm các đoạn video giới thiệu sản phẩm, tăng sức lan tỏa đến mọi người. Tính chung, tổng chi phí bỏ ra cho các hoạt động trên chiếm khoảng 10-15% doanh thu hàng tháng.
“Làm trong nghề lâu năm, tôi có vài mối cung cấp hàng sỉ quen và uy tín. Mỗi lần, tôi đặt mua lên đến mấy nghìn cái, giá khoảng 40.000 đồng một cái, bán cho người tiêu dùng 70.000-80.000 đồng”, anh Hào nói.
Hiện nay có nhiều người tham gia mua bán trên mạng nên mức độ cạnh tranh rất lớn, so kè nhau về giá từng tí một. "Do đó, chất lượng hàng đảm bảo, nguồn gốc rõ ràng, giao hàng đúng hẹn sẽ quyết định ai thắng ai thua", anh Hào lý giải.
bán hàng trên mạng
Nhiều bà nội trợ cũng tham gia bán hàng trên mạng nhằm kiếm thêm thu nhập. Ảnh: Phương Nga
Đến với công việc bán quần áo trẻ em trên mạng gần 1,5 năm, chị Hoài, 35 tuổi, quận Bình Thạnh trước đây là bà nội trợ chỉ quanh quẩn chuyện bếp núc. Hiện tại, một ngày làm việc của chị là chọn các mẫu ưng ý, sau đó chụp hình và đưa sản phẩm lên mạng xã hội, có khi gọi điện xác nhận nơi giao hàng, kiểm tra và cập nhật hàng mới. Cứ một kiện ứng với 100 kg, giá vốn 4-6 triệu đồng. Mỗi tháng trừ hết chi phí mua hàng và đăng tin bài trên diễn đàn, chị thu về 10 triệu đồng.
“Tôi có nguồn hàng cung cấp ổn định nhập từ Nhật, với chất liệu và mẫu mã không khác gì so với hàng hiệu. Giá bán tương đương hàng Việt Nam xuất khẩu”, chị Hoài nói. Ngoài việc đăng sản phẩm lên mạng xã hội, chị còn tích cực tham gia các cuộc thi trên diễn đàn hoặc dự hội chợ để sản phẩm có thể đến tay người tiêu dùng theo mọi ngả đường.
Chị chia sẻ, kinh doanh trong lĩnh vực này cần siêng năng, nhạy bén, cập nhật thường xuyên mẫu mới, nếu không sản phẩm sẽ lỗi thời, không thu hút được khách hàng.
Tuy nhiên, do người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm qua hình ảnh, lời bình luận, chứ không trực tiếp sờ và thử nên nhiều người e ngại chất lượng có đúng như quảng cáo. Là nhân viên truyền thông một công ty chứng khoán ở quận 1, chị Thủy làm thêm nghề tay trái để cải thiện thu nhập. Ý tưởng kinh doanh quần áo trẻ em qua mạng nảy ra từ lúc chị sinh con gái đầu lòng cách đây một năm. Các bé lớn rất nhanh trong những năm đầu nên bố mẹ phải thường xuyên thay đổi quần áo cho con. Chị không mua sỉ vì sợ chôn vốn lâu, hàng nhanh lỗi mốt mà bán tới đâu lấy hàng tới đó. Cứ mỗi chiếc áo hay quần, chị lời 10.000-15.000 đồng.
Khi đăng một số mẫu hàng trên trang mạng xã hội, có khách hàng yêu cầu may theo kiểu riêng. Trong trường hợp này, chị đề nghị đối tác may theo đúng đề xuất của khách rồi chụp hình lại đưa lên mạng để khách hàng lựa chọn. Công việc này giúp chị thu nhập ổn định và cao hơn cả nhân viên công ty chứng khoán, với 10 triệu đồng một tháng.
Anh Hải, ở quận 2 lại kinh doanh online phần mềm ứng dụng trên thiết bị di động. Anh làm chương trình ứng dụng trên di động từ đầu năm 2010 khi nhận thấy các phần mềm, dịch vụ di động có sức mua tốt. Ngoài ra, một số hãng sản xuất di động dự định hợp tác với các nhà cung cấp viễn thông trong nước để tạo kênh bán hàng và thanh toán giống như trên iPhone. Do đó, anh và nhóm bạn quyết tâm theo đuổi kinh doanh ứng dụng di động.
Anh Hải ước tính lượng người dùng cuối tải ứng dụng trung bình 200-300 lượt một ngày. Mỗi ứng dụng có giá 15.000-20.000 đồng. Nếu người dùng tải phần mềm có giá 15.000 đồng, anh thu về 4.500 đồng. Cứ một ứng dụng, anh lãi khoảng 27 triệu đồng trong tháng. Có khi nhóm anh thực hiện 2-3 ứng dụng, nâng thu nhập tầm 54 triệu đồng.
Nghề này cũng đối mặt với nhiều khó khăn. Các phần mềm di động trên Android tại Việt Nam đưa lên kho Google Play không được đặt giá bán, chỉ có thể miễn phí. Do đó, mô hình thu tiền chủ yếu lấy từ quảng cáo. Nếu là ứng dụng thu tiền qua tin nhắn, tỷ lệ ăn chia cũng không hấp dẫn, dẫn đến nguồn doanh thu thấp hoặc nếu theo hình thức thẻ cào thì không không thuận tiện cho người mua ứng dụng.
Nhìn chung, các nhà phát triển chưa có nhiều kinh phí để quảng bá phần mềm đến người dùng cuối. Bản thân lập trình viên cũng ít người đầu tư thời gian, công sức vào để viết tài liệu, quay video giới thiệu ứng dụng để nhiều người biết đến. Vì vậy, mặc dù ứng dụng có thể có chất lượng cao nhưng ít người biết tới và hiệu quả doanh thu chưa xứng tầm, anh Hải nhận xét.

Lựa chọn chính sách giá hiệu quả

Quảng cáo 365 - Chính sách giá khác với các yếu tố còn lại của tổ hợp tiếp thị ở chỗ nó tạo ra doanh thu; trong khi các yếu tố khác chỉ tạo ra chi phí.
Marketing - Thương hiệu - Lựa chọn chính sách giá hiệu quả
Do vậy các công ty thường tìm mọi cách để nâng giá lên càng cao càng tốt chừng nào mà mức độ khác biệt của sản phẩm cho phép làm điều đó. Đồng thời, các công ty cũng nhận ra rằng họ phải xem xét tác động của giá cả đối với khối lượng. Công ty tìm kiếm mức độ doanh thu (giá cả nhân với khối lượng) nào mà khi đem trừ đi chi phí sẽ cho kết quả lợi nhuận lớn nhất.
Các công ty cũng tìm cách ước tính tác động của việc tăng giá đến lợi nhuận. Chủ tịch của một công ty có nói với tác giả rằng nếu ông ta có thể tăng thêm một đô la cho mỗi đơn vị sản phẩm thì lợi nhuận của công ty có thể tăng thêm vài triệu đô. Dưới đây là một số ước tính về tác động của việc tăng 1% giá bán đối với lợi nhuận, với giả thiết rằng khối lượng bán được vẫn như cũ:
  • Coca-cola 6,4%
  • Phim Fuji 16,7%
  • Sữa Nestles 17,5%
  • Xe Ford 26,0%
  • Philips 28,7%
  • Một công ty Mỹ điển hình 12,0%
Tất nhiên, điều quan trọng là phải phân biệt giữa giá ghi trên nhãn và giá bán thực. Ngày nay việc mua bán hạ giá phổ biến đến mức ít có khách hàng chịu mua theo giá ghi trên nhãn. Người mua có thể được giảm giá theo phần trăm, được khấu trừ, được cung cấp dịch vụ kèm theo, hay một món quà, tất cả hình thức này đều làm giảm giá thực bán. Hầu hết các công ty đều không làm tốt việc đo lường và kiểm soát hệ quả “đi xuống” hay “làm giảm đi” của các hình thức trợ giá như vậy. Những công ty nào nghĩ rằng sẽ có lợi từ một số khách hàng nào đó có thể sẽ ngạc nhiên nếu họ áp dụng phương pháp kế toán ABC. (Tính chi phí theo hoạt động). Số lượng lớn khách hàng được hưởng lợi từ việc giảm giá và dịch vụ tăng thêm rốt cuộc có thể không đem lại lợi nhuận.
Để định ra giá cả, nhiều công ty cộng thêm “khoản lãi” vào mức giá dự kiến. Cách làm này thường được gọi là định giá theo chi phí. Trong ngànhh kinh doanh thực phẩm, các nhà sản xuất và các nhà bán lẻ áp dụng các khoản lãi định mức nhất định đối với từng chủng loại sản phẩm, chí ít là lúc đầu. Trong ngành tư vấn quản lý, các công ty đầu tư vẫn thường định lệ phí dịch vụ gấp 2,5 lần chi phí tư vấn, với tính toán rằng lệ phí này sẽ đủ thanh toán toàn bộ các phí tổn và để lại một biên lợi nhuận hấp dẫn.
Theo cách làm khác, một số công ty áp dụng các định giá theo giá trị. Họ ước tính, mức giá cao nhất mà người mua có thể chấp nhận trảsự chào hàng của công ty. Công ty sẽ không tính giá bán theo giá đó vì người mua có thể từ chối mua. Họ sẽ tính giá thấp hơn cho cái gọi là giá theo giá trị (value price) – để lại cho người mua một số “thặng dư của người tiêu dùng.” Người bán hy vọng rằng do giá thành sản phẩm thấp hơn nhiều so với giá theo giá trị, trong trường hợp đó người bán sẽ được hưởng lợi nhuận cao. Nếu giá thành của người bán gần bằng hay vượt quá giá theo giá trị, thì người bán sẽ không bao giờ chào hàng.
Hãng Dupont là một bậc thầy về định giá theo giá trị. Ví dụ, giả sử Dupont sáng chế ra một loại ống dẫn cải tiến có thể sử dùng để vận chuyển hóa chất mạnh giữa các quy trình. Do ống dẫn cũ phải thay thế hàng năm, nên buộc công ty khách hàng phải đóng cửa nhà máy mỗi năm một ngày. Giả sử khách hàng phải phí tổn 10.000 đô la cho việc này. Bây giờ giả sử rằng loại ống dẫn mới có ưu điểm là có thể làm việc ba năm mới cần thay đổi. Dupont hiểu rằng nếu khách hàng vẫn chọn loại ống cũ, thì họ phải bỏ ra 30.000 đô la trong ba năm cộng với chi phí mua ba ống dẫn, trong khi dùng loại ống cải tiến chỉ mất có 10.000 đô la cho ba năm cộng với chi phí mua loại ống dẫn cải tiến. Bây giờ Dupont ước tính giá mà đối với khách hàng sẽ không có sự khác biệt giữa mua loại ống dẫn cũ hàng năm và đóng cửa nhà máy một ngày và mua ống cải tiến ba năm một lần. Sau đó Dupont đặt giá cho loại ống dẫn cải tiến hơi thấp hơn cái giá không tạo sự khác biệt trên đây nhằm khách hàng chuyển sang mua ống cải tiến. Mức độ ưu đãi để khách hàng chuyển sang dùng sản phẩm mới càng lớn thì Dupont càng nhiệt tình để dành cho được những khách hàng đầu tiên cho loại ống dẫn cải tiến của mình và càng có nhiều khả năng đối thủ cạnh tranh sẽ đưa ra sự cải tiến tương tự. Cần lưu ý rằng Dupont định giá mà không dựa vào chi phí phát triển và sản xuất loại ống dẫn cải tiến; có thể là vì giá thành của nó khá thấp so với giá mà nó có thể bán.
Định giá theo giá trị cũng xuất hiện trong hoàn cảnh khác. Người ta sẽ trả tiền nhiều hơn cho các ghế ngồi ở gần sân khấu so với các ghế ngồi ở hành lang nhà hát; cho các buổi biểu diễn vào tối thứ bảy so với các buổi biểu diễn trong tuần; cho các dịch vụ của các bác sĩ hay nhà tư vấn có tay nghề cao hơn.
Các nhà tiếp thị khôn ngoan sẽ cộng thêm vào các sản phẩm của mình các lợi ích tăng thêm và tính giá tổng cho tất cả những thứ họ đưa ra. Họ có thể tạo ra nhiều cách chào hàng bán kèm để khách hàng lựa chọn. Bảng 6-2 cho thấy cách Dupont chào hàng bằng một loại hóa chất nào đó theo hai gói giá trị khác nhau, mỗi gói giá trị tính giá khác nhau. Một gói “ít lợi, ít tiền” và gói kia “nhiều lợi, nhiều tiền” nếu có khách hàng chỉ muốn một số gói “nhiều lợi, nhiều tiền Dupont sẽ chuẩn bị một gói giá trị thứ ba và tính theo giá được liệt kê ở bên phải. Như vậy,nếu khách hàng chỉ mua sản phẩm có độ tinh khiết cao hơn và toàn bộ hệ thống, thì gói giá trị được tính là 102,5 đô la một pound. Dupont tin vào việc định giá và bán kèm linh hoạt, còn khách hàng thì hoan nghênh cơ hội để lựa chọn.
Theo Caia.vn

Các yếu tố của chiến lược xúc tiến

Quảng cáo 365 - Chữ P thứ tư, xúc tiến thương mại (Promotion), bao gồm tất cả các công cụ giao tiếp có thể chuyển thông điệp đến khách hàng mục tiêu. Các công cụ xúc tiến được chia thành năm loại: quảng cáo, khuyến mại, quan hệ công chúng, lực lượng bán hàng.

Marketing - Thương hiệu - Các yếu tố của chiến lược xúc tiến

Quảng cáo

Quảng cáo là công cụ có sức mạnh nhất để tạo ra nhận thức về công ty, sản phẩm, dịch vụ, hay ý tưởng. Nếu về chi phí bỏ ra để đến được với 1000 khách hàng, thì chiến dịch có thể gây dựng được hình ảnh và thậm chí mức độ ưa thích nào đó hoặc ít ra là sự chấp nhận thương hiệu.
  • Quảng cáo trên báo và phát sóng
  • Bao bì – mặt ngoài
  • Bao bì đưa thêm vào
  • Phim nhựa
  • Sách nhỏ quảng cáo
  • Áp phích và tờ rơi
  • Danh bạ
  • In lại các quảng cáo
  • Các tấm bảng quảng cáo
  • Các bảng hiệu
  • Các điểm bán hàng
  • Thiết bị nghe – nhìn
  • Các biểu tượng và logo
  • Phim video

Khuyến mại

Hầu hết quảng cáo không đưa đến việc tăng doanh số một cách nhanh chóng. Quảng cáo thường có tác động đến tâm trí, chứ không phải hành vi. Chính khuyến mại mới có tác động đến hành vi. Khi khách hàng nghe tin có bán hạ giá, sự mời chào chỉ trả một mà được hai, có quà tặng, hay cơ hội để trúng thưởng gì đó, thì họ sẽ thành công.
  • Các cuộc thi, trò chơi, đánh cược, quay xổ số
  • Phần thưởng và quà tặng
  • Hàng mẫu
  • Hội chợ
  • Triển lãm
  • Trình bày hàng mới
  • Phiếu mua hàng
  • Chiết khấu giá
  • Tín dụng lãi suất thấp
  • Giải trí
  • Các chương trình liên tục
  • Bán kèm

Quan hệ công chúng

Cũng như khuyến mại, quan hệ công chúng gồm có một loạt các công cụ. Quan hệ công chúng có thể rất có hiệu quả, mặc dù nó thường chưa được sử dụng không đúng mức trong việc xúc tiến sản phẩm hay dịch vụ. Một nguyên nhân là bộ phận quan hệ công chúng của công ty thường đặt ở một phòng riêng biệt, không chỉ xử lý các công việc PR về tiếp thị (MPR) mà còn PR về tài chính, PR nhân sự, PR chính phủ, và vân vân. Do đó các nhà tiếp thị phải xin nguồn lực từ phòng PR hay phải thuê một tổ chức PR riêng.
  • Tư liệu cho báo chí
  • Các bài phát biểu
  • Hội thảo
  • Báo cáo hàng năm
  • Đóng góp từ thiện
  • Tài trợ các hoạt động
  • Xuất bản
  • Quan hệ với cộng đồng
  • Vận động hành lang
  • Tạo hình ảnh trên phương tiện truyền thông
  • Tập san của công ty
  • Tổ chức các sự kiện

Lực lượng bán hàng

Một trong những công cụ giao tiếp tiếp thị tốn kém nhất chính là lực lượng bán hàng của công ty, đặc biệt lực lượng có mặt trên hiện trường, đi công cán, và tiêu tốn nhiều thời gian để săn lùng khách hàng tiềm năng và để giữ cho khách hàng hiện có luôn hài lòng. Khi tính đến một thực tế là một nhân viên bán hàng bình thường chỉ bỏ ra 30% thời gian với khách hàng, thời gian còn lại dùng để tìm hiểu sản phẩm và học các kỹ thuật bán hàng, làm các báo cáo, dự các cuộc họp khách hàng, đi công tác, và vân vân, thì đòi hỏi phải có kỹ năng rất cao để quản lý chặt chẽ đội ngũ này.
  • Thuyết trình bán hàng
  • Hội thảo
  • Chương trình khuyến khích
  • Hàng mẫu
  • Hội chợ
  • Tiếp thị trực tiếp
  • Catalog
  • Thư tín
  • Tiếp thị từ xa
  • Mua sắm qua mạng
  • Mua sắm trên truyền hình
  • Mua bán qua fax
  • E-mail
  • Voice mail

Sunday, July 28, 2013

Quản trị marketing

Quảng cáo 365 - Trong marketing căn bản Quản trị marketing là quá trình lập kế hoạch, và thực hiện kế hoạch đó, định giá, khuyến mãi và phân phối hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng để tạo ra sự trao đổi với các nhóm mục tiêu, thỏa mãn những mục tiêu khách hàng và tổ chức.

quản trị marketing
Marketing là một phần quan trọng trong việc phát triển của doanh nghiệp

Để thực hiện những quá trình trao đổi đòi hỏi phải tốn rất nhiều công sức và có trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Quản trị marketing diễn ra khi ít nhất có một bên trong vụ trao đổi tiềm ẩn suy tính về những mục tiêu và phương tiện để đạt được những phản ứng mong muốn từ phía bên kia. Ta sẽ sử dụng khái niêm sau đây về quản trị marketing mà đã được hội marketing Mỹ chấp nhận năm 1985.
Quản trị marketing là quá trình lập kế hoạch, và thực hiện kế hoạch đó, định giá, khuyến mãi và phân phối hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng để tạo ra sự trao đổi với các nhóm mục tiêu, thỏa mãn những mục tiêu khách hàng và tổ chức.
Định nghĩa này thừa nhận quản trị marketing là một quá trình bao gồm việc phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát. Nó liên quan đến hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng, và dựa trên ý niệm về trao đổi, mục đích của nó là tạo ra sự thỏa mãn cho các bên hữu quan.
Trong một tổ chức, quản trị marketing có thể liên quan đến mọi thị trường. Ta hãy xét một hãng sản xuất ô tô. Phó chủ tịch phụ trách nhân sự liên quan đến thị trường sức lao động, phó chủ tịch phụ trách cung ứng liên quan đến thị trường nguyên liệu, và phó chủ tịch phụ trách tài chính liên quan đến thị trương tiền tệ. Họ phải đề ra những mục tiêu và hoạch định những chiến lược để đạt được các kết quả thỏa mãn trên thị trường đó. Tuy nhiên theo truyền thống thì các cán bộ điều hành nói trên không được gọi là những người làm marketing và họ cũng không được đào tạo về marketing. Khá lắm thì họ cũng chỉ là người làm marketing “bán thời gian”. Đáng lẽ ra là như vậy, nhưng xưa nay quản trị marketing đồng nhất với những nhiệm vụ và con người liên quan đến thị trường khách hàng. Ta sẽ theo thông lệ này mặc dù những điều ta bàn về marketing đều áp dụng cho tất cả thị trường.
Công việc marketing trên thị trường khách hàng chính thức là do những người quản lý tiêu thụ, nhân viên bán hàng, những người quản lý sản phẩm và nhãn hiệu, những người quản lý thị trường và ngành, và phó chủ tịch phụ trách marketing thực hiện. Mỗi công việc đều có những nhiệm vụ và trách nhiệm được xác định rõ ràng. Trong số những công việc này có rất nhiều công việc liên quan đến việc quản lý những tài nguyên marketing cụ thể, như quảng cáo, nhân viên bán hàng hay nghiên cứu marketing. Mặt khác, những người quản lý sản phẩm, những người quản lý thị trường và phó chủ tịch phụ trách marketing thì quản lý các chương trình. Công việc của họ là phân tích, hoạch định và triển khai các chương trình nhằm tạo ra các giao dịch như mong muốn với các thị trường mục tiêu.
Người ta thường quan niệm quản trị marketing có nhiệm vụ chủ yếu là kích thích nhu cầu có khả năng thanh toán về những sản phẩm của công ty. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một quan niệm hết sức phiến diện về những nhiệm vụ marketing rất đa dạng và những người quản trị marketing phải thực hiện. Quản trị marketing có nhiệm vụ tác động đến mức độ, thời điểm và cơ cấu của nhu cầu có khả năng thanh toán theo một cách nào đó để giúp cho tổ chức đạt được những mục tiêu đề ra. Quản trị marketing về thực chất là quản trị nhu cầu có khả năng thanh toán.
Tổ chức chắc chắn phải có một ý tưởng về mức độ giao dịch mong muốn với thị trường mục tiêu. Trong khi đó mức độ thực tế của nhu cầu có khả năng thanh toán có thể thấp hơn, bằng hay cao hơn mức độ mong muốn của nó. Nghĩa là có thể không có nhu cầu có khả năng thanh toán tương xứng hoặc nhu cầu có khả năng thanh toán cao hơn nhu cầu thực tế. Và quản trị marketing phải nắm bắt được những tình trạng khác nhau đó.
Để đảm đương những nhiệm vụ đó các nhà quản trị marketing phải tiến hành nghiên cứu marketing, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra. Trong phần kế hoạch marketing, những người làm marketing phải thông qua những quyết định về thị trường mục tiêu, xác định vị trí trên thị trường, phát triển sản phẩm, định giá, các kênh phân phối, thông tin liên lạc và khuyến mãi. Những nhiệm vụ marketing sẽ được phân tích trong những chương sau.

Marketing căn bản : Những khái niệm cốt lõi của marketing

Quảng cáo 365 - Theo marketing căn bản, Marketing là quá trình tổ chức lực lượng bán hàng nhằm bán được những hàng hóa do công ty sản xuất ra. Marketing là quá trình quảng cáo và bán hàng. Marketing là quá trình tìm hiểu và thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Hay Marketing là làm thị trường, nghiên cứu thị trường để thỏa mãn nó.

marketing

Có nhiều cách định nghĩa Marketing khác nhau. Marketing là quá trình tổ chức lực lượng bán hàng nhằm bán được những hàng hóa do công ty sản xuất ra. Marketing là quá trình quảng cáo và bán hàng. Marketing là quá trình tìm hiểu và thỏa mãn nhu cầu của thị trường. Hay Marketing là làm thị trường, nghiên cứu thị trường để thỏa mãn nó. Chúng ta cũng có thể hiểu rằng Marketing là các cơ chế kinh tế và xã hội mà các tổ chức và cá nhân sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của mình thông qua quy trình trao đổi sản phẩm trên thị trường.
Theo Philip Kotler thì marketing được hiểu như sau: Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người khác.
Khái niêm này của marketing dựa trên những khái niệm cốt lõi: nhu cầu, mong muốn và yêu cầu, sản phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng, trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ, thị trường, marketing và những người làm marketing. Những khái niệm này được minh hoạ trong hình sau:

Nhu cầu, mong muốn và yêu cầu

Tư duy marketing bắt đầu từ những nhu cầu và mong muốn thực tế của con người. Người ta cần thức ăn, không khí, nước, quần áo và nơi ở để nương thân. Ngoài ra người ta còn rất ham muốn được nghỉ ngơi, học hành và các dịch vụ khác. Họ cũng có sự ưa chuộng những mẫu mã và nhãn hiệu cụ thể của những hàng hoá dịch vụ cơ bản.
Số liệu thống kê cho thấy, trong một năm, 249 triệu người Mỹ có thể tiêu dùng hay sử dụng 67 tỷ quả trứng, 2 tỷ con gà, 5 triệu máy sấy tóc, 133 tỷ km hành khách du lịch nội địa bằng máy bay và hơn 4 triệu bài giảng của các giáo sư đại học Anh ngữ. Những hàng tiêu dùng và dịch vụ này đẻ ra yêu cầu phải có hơn 150 triệu tấn thép, 4 tỷ tấn bông vải và nhiều loại tư liệu sản xuất khác.
Cần phân biệt rõ các khái niệm nhu cầu, mong muốn và yêu cầu. Nhu cầu của con người là một trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thoả mãn cơ bản nào đó. Người ta cần có thức ăn, quần áo, nơi ở, sự an toàn, của cải, sự quý trọng và một vài thứ khác nữa để tồn tại. Những nhu cầu này không phải do xã hội hay những người làm marketing tạo ra. Chúng tồn tại như một bộ phận cấu thành cơ thể con người và nhân thân con người.
Mong muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những nhu cầu sâu xa hơn đó. Một người Mỹ có nhu cầu thức ăn và mong muốn có có món hamburger, có nhu cầu về quần áo và mong muốn có bộ đồ Pierrre Cardin, có nhu cầu về sự quý trọng và muốn có một chiếc xe Mercedes. Trong một xã hội khác thì những nhu cầu này lại được thoả mãn theo một cách khác: Những người thổ dân Úc thoả mãn cơn đói của mình bằng chim cánh cụt; Nhu cầu về quần áo bằng mảnh khố; Sự quý trọng bằng một chuỗi vòng vỏ ốc để đeo cổ. Mặc dù nhu cầu của con người thì ít, nhưng mong muốn của họ thì nhiều. Mong muốn của con người không ngừng phát triển và được định hình bởi các lực lượng và định chế xã hội, như nhà thờ, trường học, gia đình và các công ty kinh doanh.
Yêu cầu là mong muốn có được những sản phẩm cụ thể được hậu thuẫn của khả năng và thái độ sẵn sàng mua chúng. Mong muốn trở thành yêu cầu khi có sức mua hỗ trợ. Nhiều người mong muốn có một chiến xe Mercedes, nhưng chỉ có một số ít người có khả năng và sẵn sàng mua kiểu xe đó. Vì thế công ty không những phải định lượng xem có bao nhiêu người mong muốn có sản phẩm của mình, mà điều quan trọng hơn là phải định lượng xem có bao nhiêu người thực sự sẵn sàng và có khả năng mua nó.
Những điểm khác biệt nêu trên đã làm sáng tỏ những ý kiến phê bình thường thấy của những người lên án marketing là “những người làm marketing tạo ra nhu cầu” hay “những người làm marketing dụ dỗ mọi người mua những thứ mà họ không mong muốn”. Những người làm marketing không tạo ra nhu cầu, nhu cầu đã tồn tại trước khi có những người làm marketing. Cùng với những yếu tố ảnh hưởng khác trong xã hội, những người làm marketing có tác động đến những mong muốn. Họ cổ vũ ý tưởng là chiếc xe Mercedes sẽ thoả mãn nhu cầu về địa vị xã hội của con người. Tuy nhiên những người làm marketing không tạo ra nhu cầu về địa vị xã hội. Họ tác động đến yêu cầu bằng cách làm ra sản phẩm thích hợp, hấp dẫn, vừa túi tiền và dễ kiếm cho những người tiêu dùng mục tiêu.

Sản phẩm

Người ta thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của mình bằng hàng hoá và dịch vụ. Thuật ngữ sản phẩm ở đây được hiểu là cả hang hoá lẫn dịch vụ. Ta định nghĩa sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn. Ý nghĩa quan trọng của sản phẩm vật chất bắt nguồn không phải từ việc sở hữu chúng, mà chính là từ việc có được những dịch vụ mà chúng đem lại. Ta mua một chiếc xe không phải để ngắm nhìn nó mà vì nó cung ứng vận chuyển. Ta mua một cái bếp không phải để chiêm ngưỡng mà vì nó đảm bảo dịch vụ nấu nướng. Vì vậy các sản phẩm vật chất thực sự là những phương tiện đảm bảo phục vụ chúng ta.
Thực ra thì dịch vụ còn do những yếu tố khác đảm bảo, như con người, địa điểm, các hoạt động, tổ chức và ý tưởng. Nếu ta cảm thấy buồn thì ta có thể đến một câu lạc bộ hài kịch để xem một diễn viên hài biểu diễn, gia nhập câu lạc bộ độc thân (tổ chức) hay chấp nhân triết lý sống khác nhau (ý tưởng). Vì thế ta sẽ sử dụng thuật ngữ sản phẩm để ám chỉ sản phẩm vật chất, sản phẩm dịch vụ và những phương tiện khác có khả năng thoả mãn một mong muốn hay một nhu cầu. Đôi khi ta cũng sẽ sử dụng những thuật ngữ khác nhau thay cho sản phẩm, như hàng hoá, yếu tố thoả mãn hay nguồn tài nguyên.
Các nhà sản xuất hay phạm sai lầm là chú trọng đến các sản phẩm vật chất của mình hơn là đến những dịch vụ mà những sản phẩm đó thực hiện. Họ chỉ nghĩ đến việc tiêu thụ sản phẩm chứ không phải việc đảm bảo giải quyết một nhu cầu. Thế nhưng một người phụ nữ lại không mua cục sáp môi, mà bà ta lại mua “một niềm hy vọng” làm đẹp cho mình. Người thợ mộc không mua một cái khoan, mà mua một “lỗ khoan”. Đối tượng vật chất chỉ là một phương tiện bao gói một dịch vụ. Công việc của người làm marketing là bán những lợi ích hay dịch vụ chứa đựng trong những sản phẩm vật chất, chứ không phải là mô tả những tính chất vật lý của chúng. Những người bán chỉ chú tâm đến sản phẩm vật chất chứ không phải nhu cầu của người tiêu dung là người mắc bệnh “thiển cận marketing”.

Giá trị chi phí và sự thoả mãn

Trong số rất nhiều những sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu nhất định, người tiêu dùng sẽ lựa chọn như thế nào? Giả sử, hàng ngày một người phải đi làm xa 3 dặm. Có một số sản phẩm có thể thoả mãn được nhu cầu này: patanh, xe đạp, xe gắn máy, ô tô, taxi và xe buýt. Những phương án này tạo nên một tập khả năng lựa chọn sản phẩm. Giả sử người đó muốn thoả mãn một số nhu cầu phụ thêm trên đường đi làm, cụ thể là tốc độ, an toàn, thoải mái và tiết kiệm. Ta gọi đó là tập nhu cầu. Bây giờ thì mỗi sản phẩm có một khả năng khác nhau để thoả mãn những nhu cầu khác nhau của người đó. Chẳng hạn như xe đạp thì chậm hơn, kém an toàn và tốn sức hơn là ô tô, nhưng lại tiết kiệm hơn. Dù thế nào đi nữa thì người đó cũng phải quyết định sản phẩm nào sẽ đảm bảo thoả mãn nhu cầu đầy đủ nhất.
Khái niệm chủ đạo là giá trị đối với khách hàng. Người đó sẽ đánh giá khả năng của từng sản phẩm thoả mãn tập nhu cầu của mình. Anh ta có thể xếp hạng các sản phẩm từ loại thoả mãn nhiều nhu cầu nhất đến đến loại thoả mãn ít nhu cầu nhất. Giá trị là sự đánh giá của người tiêu dùng về khả năng chung của sản phẩm thoả mãn những nhu cầu của mình.
Ta có thể yêu cầu anh ta hình dung những đặc điểm của một sản phẩm lý tưởng đối với những nhiệm vụ đó. Anh ta có thể trả lời rằng sản phẩm lý tưởng sẽ đưa anh ta đến chỗ làm trong giây lát với sự an toàn tuyêt đối, không mất sức và chi phí bằng không. Khi đó giá trị của mỗi sản phẩm thực tế sẽ phụ thuộc vào mức độ nó gần với sản phẩm lý tưởng đó.
Giả sử rằng anh ta quan tâm hàng đầu đến tốc độ và sự thoải mái khi đi làm. Nếu anh ta được sử dụng miễn phí bất kỳ sản phẩm nào trong số đó, thì ta có thể đoán trước được là anh ta sẽ chọn ô tô. Nhưng bây giờ mới nảy sinh vướng mắc: chi phí để mua ô tô lớn hơn nhiều so với chi phí để mua một chiếc xe đạp, do đó anh ta sẽ phải từ bỏ nhiều thứ khác (có giá trị) để mua ô tô. Vì thế anh ta sẽ xem xét giá trị và giá cả của sản phẩm trước khi anh ta chọn. Anh ta sẽ chọn sản phẩm nào tạo ra giá trị lớn nhất trên một đồng USD.
Các nhà nghiên cứu về hành vi của người tiêu dùng ngày nay đã vượt ra ngoài khuôn khổ chật hẹp của những giả thuyết kinh tế về cách thức người tiêu dùng xét đoán giá trị và lựa chọn sản phẩm.

Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ

Việc con người có những nhu cầu và mong muốn và có thể gắn cho các sản phẩm một giá trị vẫn chưa nói lên hết được ý nghĩa của marketing. Markerting xuất hiện khi người ta quyết định thoả mãn những nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Trao đổi là một trong bốn cách để người ta có được các sản phẩm.
Cách thứ nhất là tự sản xuất. Người ta có thể tự giải quyết cơn đói bằng cách săn bắn, đánh cá hay hái lượm trái cây. Họ không cần phải quan hệ với bất kỳ ai khác. Trong trường hợp này, không có thị trường và cũng không có marketing.
Cách thứ hai là cưỡng đoạt. Những người đói có thể cướp giật hay đánh cắp thức ăn của những người khác. Những người khác đó không được lợi gì ngoại trừ một điều là không bị thương.
Cách thứ ba là đi xin. Những người đói có thể đến xin người khác thức ăn. Họ không có thứ gì hữu hình để trao đổi, ngoại trừ lời cảm ơn.
Cách thứ tư là trao đổi. Những người đói có thể đem đến người khác tiền, loại hàng hoá khác hay dịch vụ để đổi lấy thức ăn.
Marketing phát sinh từ phương thức kiếm sản phẩm thứ tư này. Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người nào đó bằng cách đưa cho người đó những thứ gì đó. Trao đổi là một khái niệm quyết định, tạo nền móng cho marketing. Trao đổi chỉ xảy ra khi thoả mãn đủ điều kiện sau:
1. Ít nhất phải có hai bên.
2. Mỗi bên phải có một thứ gì đó có thể có giá trị đối với bên kia.
3. Mỗi bên phải có khả năng tự giao dịch và chuyển giao hàng hoá của mình.
4. Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay khước từ lời đề nghị của bên kia.
5. Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Nếu có đủ năm điều kiện này thì mới có tiềm năng trao đổi. Còn việc trao đổi có thực sự diễn ra hay không là còn tuỳ thuộc vào vấn đề hai bên có thể thảo thuận được những điều kiện trao đổi có lợi cho cả hai bên (hay chí ít cũng không có hại) so với trước khi trao đổi. Chính vì ý nghĩa này mà trao đổi được xem như là một quá trình tạo ra giá trị, nghĩa là trao đổi thường làm cho cả hai bên có lợi hơn trước khi trao đổi.
Trao đổi phải được xem như là một quá trình chứ không phải là một sự việc. Hai bên được xem như là đã tham gia trao đổi nếu họ đang thương lượng để đi đến một thoả thuận. Khi đạt được một thoả thuận thì ta nói giao dịch đã diễn ra. Giao dịch là đơn vị cơ bản của trao đổi. Giao dịch là một vụ mua bán những giá trị giữa hai bên. Ta có thể đoán chắc rằng: bên A đã đưa cho bên B vật X và đã nhận lại vật Y. Tuy nhiên giao dịch không đòi hỏi phải có tiền như một trong những giá trị được mua bán. Giao dịch trao đổi hàng có nghĩa là người này đưa cho người kia một chiếc tủ lạnh và nhận một chiến TV. Giao dịch hàng đổi hàng cũng có thể là mua bán dịch vụ thay vì hàng hoá, như khi mà luật sư viết một tờ di chúc cho bác sỹ để đổi lấy việc khám bệnh…
Giao dịch đòi hỏi phải có một yếu tố: ít nhất có hai giá trị, những điều kiện thực hiện đã được thoả thuận, thời gian thực hiện đã thoả thuận, địa điểm thực hiện đã được thoả thuận. Thông thường có cả một hệ thống luật pháp hậu thuẫn và bắt buộc các bên giao dịch phải thực hiện đúng các phần cam kết của mình. Giao dịch rất dễ làm phát sinh mâu thuẫn do hiểu lầm hay cố tình. Không có “luật hợp đồng” thì mọi người sẽ thiếu tin cậy vào giao dịch và tất cả đều bị thua thiệt.
Các doanh nghiệp để theo dõi các vụ giao dịch của mình và phân loại chúng theo mặt hàng, giá cả, địa điểm và những biến cố khác. Phân tích doanh số bán là việc phân tích nguồn gốc doanh thu của công ty theo sản phẩm, khách hàng và địa bàn…
Giao dịch khác với chuyển giao. Trong chuyển giao bên A đưa cho bên B vật X nhưng không nhận lại vật gì hữu hình. Khi bên A đưa cho bên B một món quà, một khoản tiền trợ cấp hay một khoản đóng góp từ thiện, thì ta nói đó là một vụ chuyển giao chứ không phải giao dịch. Dường như marketing chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu giao dịch chứ không phải chuyển giao. Tuy nhiên hành vi chuyển giao cũng có thể được tìm hiểu qua khái niệm trao đổi. Thông thường người chuyển giao có những kỳ vọng nhât định đối với việc tặng quà, như nhận được một lời cảm ơn hay được thấy người nhận có những hành vi tốt hơn. Những người quyên góp quỹ chuyên nghiệp hiểu rất rõ động cơ “có đi có lại” của những nhà hảo tâm và mời họ đến dự các buổi lễ. Gần đây những người làm marketing đã mở rộng khái niệm marketing để nó bao hàm nhiều việc nghiên cứu hành vi chuyển giao cũng như hành vi giao dịch.
Theo ý nghĩa chung nhất thì người làm marketing đang tìm cách tạo cho được hành vi phản ứng từ phía bên kia. Một công ty kinh doanh thì muốn phản ứng đó là hành vi mua hang, một ứng viên chính trị thì muốn phản ứng đó là hành vi bỏ phiếu, nhà thờ thì muốn phản ứng đó là hành vi theo đạo, nhóm hoạt động xã hội thì muốn phản ứng đó là hành vi chấp nhận ý tưởng của mình. Marketing bao gồm những hoạt động được tiến hành nhằm tạo ra những phản ứng mong muốn đối với một đối tượng từ phía công chúng mục tiêu.
Để đảm bảo các cuộc trao đổi diễn ra trôi chảy, người làm marketing phải phân tích xem mỗi bên dự kiến sẽ cho và nhận cái gì. Những tình huống trao đổi giản đơn có thể biểu diễn bằng một hồ sơ trong đó có hai người tham gia cùng những thứ mong muốn và lời mời chào lưu thông giữa họ.
Đến đây ta đã thấy bản chất của marketing giao dịch. Maketing giao dịch là một bộ phận ý tưởng lớn hơn là marketing quan hệ. Những người làm marketing khôn ngoan đều cố gắng xây dựng những quan hệ lâu dài, đáng tin cậy, cùng có lợi với những khách hàng lớn, những người phân phối, đại lý và những người cung ứng. Việc này được thực hiện bằng cách hứa hẹn và luôn đảm bảo chất lượng cao, dịch vụ chu đáo và giá cả phải chăng cho phía bên kia. Nhiệm vụ đó cũng được thực hiện bằng cách xây dựng những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật và xã hội với các bên đối tác. Marketing quan hệ sẽ làm giảm được chi phí và thời gian giao dịch và trong những trường hợp tốt đẹp nhất giao dịch sẽ làm chuyển từ chỗ phải thương lượng từng lần sang chỗ trở thành công việc thường lệ.
Kết quả cuối cùng của marketing quan hệ là hình thành được một tài sản độc đáo của công ty, gọi là mạng lưới marketing bao gồm công ty và những người cung ứng, những người phân phối và khách hàng của mình mà công ty đã xây dựng được những mối quan hệ vững chắc, tin cậy trong kinh doanh. Marketing ngày càng có xu hướng chuyển từ chỗ cố gắng tăng tối đa lợi nhuận trong từng vụ giao dịch sang chỗ tăng tối đa những mối quan hệ đôi bên cùng có lợi với các đối tác. Nguyên tắc làm việc là phải xây dựng được những mối quan hệ tốt rồi tự khắc các vụ giao dịch sẽ có lợi.

Thị trường

Thị trường bao gồm tất cả các khách hàng hiện tại và tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn đó.
Như vậy quy mô của thị trường phụ thuộc vào một số người có nhu cầu và có những tài nguyên được người khác quan tâm, và sẵn sàng đem lại những tài nguyên đó để đổi lấy cái mà họ mong muốn.
Lúc đầu thuật ngữ thị trường được hiểu là nơi mà người mua và người bán gặp nhau để trao đổi hàng hóa, chẳng hạn như một cái chợ của làng. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ thị trường để chỉ một tập thể những người mua và người bán giao dịch với nhau vể một sản phẩm hay một lớp sản phẩm cụ thể, như thị trường nhà đất, thị trường ngũ cốc…Tuy nhiên, những người làm marketing lại coi người bán họp thành ngành sản xuất, coi người mua họp thành thị trường.
Những người kinh doanh sử dụng thuật ngữ thị trường để chỉ nhóm khách hàng khác nhau. Họ nói về thị trường nhu cầu (chẳng hạn như thị trường thực phẩm thường ngày), thị trường sản phẩm (thị trường giày dép), thị trường nhân khẩu (như thị trường thanh niên) và thị trường địa lý (như thị trường Việt Nam). Hay họ còn mở rộng khái niệm để chỉ cả những nhóm không phải khách hàng, như thị trường cử tri, thị trường sức lao động và thị trường nhà hảo tâm.
Thực tế thì những nền kinh tế hiện đại đều hoạt động theo nguyên tắc phân công lao động trong đó mỗi người chuyên sản xuất một thứ gì đó, nhận tiền thanh toán rồi mua những thứ cần thiết bằng số tiền đó. Như vậy là nền kinh tế hiện đại có rất nhiều thị trường. Chủ yếu các nhà sản xuất tìm đến các thị trường tài nguyên (thị trường nguyên liệu, thị trường sức lao động, thị trường tiền tệ…) mua tài nguyên, biến chúng thành hàng hóa và dịch vụ, bán chúng cho những người trung gian để những người trung gian sẽ bán chúng cho những người tiêu dùng. Người tiêu dùng bán sức lao động của mình lấy tiền thu nhập để thanh toán cho những hàng hóa và dịch vụ mà họ mua. Nhà nước là một thị trường khác có một số vai trò. Nhà nước mua hàng hóa từ các thị trường tài nguyên, thị trường nhà sản xuất và thị trường người trung gian, thanh toán tiền cho họ, đánh thuế các thị trường đó (kể cả thị trường người tiêu dùng), rồi đảm bảo những dịch vụ công cộng cần thiết. Như vậy là mỗi nền kinh tế quốc gia và toàn bộ nền kinh tế thế giới hợp thành những tập hợp thị trường phức tạp tác động qua lại với nhau và liên kết với nhau thông qua các quá trình trao đổi.
Như vậy, khái niệm thị trường đã đưa ta quay lại điểm xuất phát là khái niệm marketing. Marketing có nghĩa là hoạt động của con người diễn ra trong mối quan hệ với thị trường. Marketing có nghĩa là làm việc với thị trường để biến những trao đổi tiềm ẩn thành hiện thực với mục đích là thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của con người.
Nếu một bên tích cực tìm kiếm cách trao đổi hơn bên kia, thì ta gọi bên thứ nhất là người làm marketing còn bên thứ hai là khách hàng triển vọng. Người làm marketing là người tìm kiếm tài nguyên từ một người khác và sẵn sàng đưa ra một thứ gì đó có giá trị trao đổi. Người làm marketing tìm kiếm một phản ứng từ phía bên kia để bán hoặc mua một thứ gì đó. Nói cách khác, người làm marketing có thể là người bán hay người mua. Giả sử, có một số người muốn mua một ngôi nhà hấp dẫn vừa mới xây xong. Như vậy là những người mua đó cũng đang làm marketing! trong trường hợp cả hai bên đều tích cực tìm cách trao đổi, thì ta nói rằng cả hai bên đều là người làm marketing và gọi trường hợp đó là marketing lẫn nhau.
Trong trường hợp bình thường người làm marketing là một công ty phục vụ thị trường người sử dụng cuối cùng đối mặt với các đối thủ cạnh tranh. Công ty và các đối thủ cạnh tranh đều gửi sản phẩm tương ứng và thông điệp cho người sử dụng cuối cùng một cách trực tiếp hay thông qua các định chế trung gian marketing (những người trung gian và những người xúc tiến thương mại). Hiệu quả tương đối của họ chịu ảnh hưởng của những người cung ứng tương ứng cũng như của những lực lượng chính của môi trường (nhân khẩu học, kinh tế, vật chất, kỹ thuật, chính trị pháp lý, xã hội/văn hóa).
Sau khi nghiên cứu kỹ những khái niệm này chúng ta xin được nhắc lại khái niệm marketing như sau: Marketing là những cơ chế kinh tế và xã hội mà các tổ chức và cá nhân sử dụng nhằm thoả mãn những nhu cầu và đòi hỏi (mong muốn) của mình thông qua các quy trình trao đổi sản phẩm trên thị trường.
còn nữa,…