Thursday, July 21, 2011

Dùng tòa trọng tài quốc tế về luật biển trong Biển Đông




Đảo Thuyền Chài thuộc quần đảo
 Trường Sa của Việt Nam. Ảnh VNE
[TVN] Khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế như Tòa ITLOS phụ thuộc vào thiện chí của các Bên tranh chấp, vào tuyên bố bằng văn bản hay thỏa thuận của cấc Bên chấp nhận thẩm quyền của Tòa và vào câu hỏi đặt ra cho Tòa.

Ngày 8/7/2011, tại chuyến thăm Trung Quốc của mình, Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã nêu với người đồng cấp Trung Quốc Dương Khiết Trì về ý tưởng giải quyết tranh chấp trên Biển Đông thông qua Tòa trọng tài quốc tế về Luật biển của Liên hợp quốc (ITLOS) phân xử của Liên hợp quốc. Phát biểu trong một cuộc họp báo tại Manila ngày 11/7/2011, ông Rosario nói: "Tôi đã đề xuất rằng chúng ta cần thông qua Tòa trọng tài quốc tế về luật biển. Philippines sẵn sàng bảo vệ lập trường của Manila theo luật pháp quốc tế trong khuôn khổ Công ước Liên hợp quốc về Luật biển và chúng tôi cũng đã hỏi liệu họ (Trung Quốc) có sẵn sàng làm như vậy hay không."

Phát biểu của Ngoại trưởng Philippines đã làm dấy lên những niềm hy vọng mới về một giải pháp cho vấn đề Biển Đông vốn đã căng thẳng trong nhiều ngày qua. Manila bày tỏ "quan ngại sâu sắc" về việc Trung Quốc đã ít nhất 10 lần xâm nhập vùng biển Philippines. Bắc Kinh tiếp tục gửi các tàu Hải giám hiện đại ra Trường Sa và những tin tức về tàu sân bay và giàn khoan hiện đại của Trung Quốc đang chuẩn bị triển khai, cuộc tập trận chung Mỹ-Philippines hay những chuyến thăm con thoi của giới quân sự Mỹ-Trung càng làm cho Biển Đông không yên ả.

Các hoạt động ngoại giao diễn ra dồn dập tại thủ đô các nước, từ Bắc Kinh, Hà Nội, tới Manila hay Jacarta nhằm giảm bớt các nguy cơ xung đột có thể dẫn đến những đụng độ với hậu quả khó lường. Thế nhưng đề xuất của Manila đã bị Bắc Kinh từ chối thẳng thừng.

Ngày 12/7 Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói trước báo giới: "Trung Quốc giữ vững lập trường rằng tranh chấp trên Biển Hoa Nam nên được giải quyết thông qua đàm phán trực tiếp giữa các nước liên quan trực tiếp." Cũng theo ông Hồng Lỗi, tranh cãi về vấn đề này cần được giải quyết dựa trên "luật pháp quốc tế đã được công nhận".

Trước đó, ngày 11/7/2011, phát biểu trong diễn văn đề cập tới "sự phát triển hòa bình của Trung Quốc và môi trường quốc tế" tại Hong Kong, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, bà Phó Oánh lên lớp: "Quan trọng là giải quyết những điểm xung đột. Trung Quốc, Việt Nam và Philippines cần phải thể hiện phương thức ngoại giao khôn khéo để đảm bảo những mâu thuẫn của chúng ta sẽ được kiềm chế, xử lý hiệu quả và chúng ta có thể sẽ không để những mâu thuẫn đó ảnh hưởng đến quan hệ. Có thể nhận thấy rằng chúng tôi đang đi theo hướng này."

Ngày 13/7/2011, đến lượt Đại sứ Việt Nam tại Philippines, ông Nguyễn Vũ Tú lên tiếng ủng hộ lời kêu gọi của Philippin về một giải pháp mang tính nguyên tắc theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp. Ông khẳng định Việt Nam sẵn sàng làm việc chặt chẽ với Philippines cả song phương lẫn hợp tác giữa các bên yêu sách nhằm đạt được một giải pháp thỏa thuận giải quyết hòa bình tranh chấp". Có vẻ như Việt Nam cũng sẵn sàng cùng Philippines đưa tranh chấp Trường Sa ra trước Tòa ITLOS nếu được yêu cầu.

Giữa những lập trường có phần trái ngược nhau như vậy câu hỏi đặt ra là Tòa trọng tài luật biển quốc tế liệu có giúp gì được cho tranh chấp ở Biển Đông, những điều kiện gì cần phải đáp ứng về mặt thủ tục để Tòa ITLOS có đủ thẩm quyền, vấn đề cụ thể gì sẽ được đưa ra trước ITLOS, liệu các bên có tìm được tiếng nói chung hay vì sao Trung Quốc không chấp nhận đưa tranh chấp Biển Đông ra trước Tòa ITLOS hay các cơ quan tài phán quốc tế khác.

1. Thủ tục và thẩm quyền của Tòa trọng tài quốc tế về Luạt biển ITLOS

ITLOS là một cơ quan tài phán riêng biệt do Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 thiết lập nhằm giải thích các điều khoản và việc áp dụng Công ước. Toà Trọng tài quốc tế về Luật biển đặt trụ sở chính thức tại Hăm buốc thuộc Cộng hoà liên bang Đức. Số thành viên của Toà án gồm 21 quan toà độc lập được tuyển chọn trong số các nhân vật nổi tiếng nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực rõ ràng trong lĩnh vực luật biển.

Công ước Luật biển của Liên hợp quốc là Công ước đầu tiên quy định thủ tục hòa giải bắt buộc và thủ tục bắt buộc giải quyết tranh chấp bằng tài phán song Công ước cho phép các bên khả năng tự lựa chọn các cơ quan tài phán quốc tế. Điều 287 quy định khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, để giải quyết các tranh chấp có liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, quốc gia được quyền tự do lựa chọn, dưới hình thức tuyên bố bằng văn bản một hay nhiều biện pháp sau:
  • a) Toà trọng tài quốc tế về Luật biển ITLOS

  • b) Toà án công lý quốc tế ICJ

  • c) Một Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước,

  • d) Một Toà Trọng tài đặc biệt để giải quyết các tranh chấp trong từng lĩnh vực riêng biệt như nghiên cứu khoa học biển, nghề cá, giao thông biển,...được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước.

Quyền tự do lựa chọn cũng có thể hàm ý tồn tại tình huống không lựa chọn một biện pháp nào. Khi đó theo điều 287, khoản 3 của Công ước, một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn có hiệu lực bảo vệ thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài trù định ở Phụ lục VII. Ngược lại quyền tự do lựa chọn cũng dẫn tới tình huống một quốc gia có thể tuyên bố chấp nhận một thủ tục duy nhất, hoặc hai hay nhiều thủ tục cùng lúc. Ví dụ, Vương quốc Bỉ vào lúc ký Công ước ngày 5/12/1984 đã chấp nhận theo thứ tự: Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước; Toà trọng tài quốc tế về Luật biển; Toà án công lý quốc tế. Nga, Ucraina và Beloruxia chọn Toà Trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước nhưng bảo lưu một số vấn đề cho thủ tục trọng tài đặc biệt. Capt Vert, Oman và Uruguay chọn Toà trọng tài quốc tế về Luật biển và thứ hai là Toà án công lý quốc tế. Như vậy sẽ có vấn đề cạnh tranh giữa danh nghĩa xét xử dựa trên điều 287 của Công ước và danh nghĩa khác phù hợp với điều 36 khoản 2 Quy chế của Toà án công lý quốc tế.

Theo điều 21 Quy chế của Toà ITLOS thì Tòa có thẩm quyền đối với tất cả các vụ tranh chấp và tất cả các yêu cầu được đưa ra Toà theo đúng Công ước, và đối với tất cả các trường hợp được trù định rõ trong mọi thoả thuận khác, giao thẩm quyền cho Toà án.

Tóm lại Tòa ITLOS sẽ có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển:
  • a) giữa các quốc gia tuyên bố bằng văn bản lựa chọn Tòa. Đây là thẩm quyền được xác định trước khi xảy ra tranh chấp. Khi tranh chấp xảy ra, một Bên liên quan và đã có tuyên bố bằng văn bản lựa chọn Tòa có quyền đơn phương kiện Bên tranh chấp với mình ra Tòa với điều kiện Bên tranh chấp này cũng đã có tuyên bố bằng văn bản chấp nhận trước thẩm quyền của Tòa.

  • b) Giữa các quốc gia tranh chấp có cùng thỏa thuận lựa chọn Tòa ITLOS bằng một thỏa thuận song phương hoặc đa phương.

Ngoài ra, trong trường hợp nếu được sự thoả thuận của tất cả các bên trong một hiệp ước hay một Công ước đã có hiệu lực có quan hệ đến một vấn đề do Công ước Luật biển đề cập, thì bất kỳ tranh chấp nào liên quan đến việc giải thích hay áp dụng hiệp ước hoặc Công ước đó cũng có thể được đưa ra Toà ITLOS theo đúng như điều đã thoả thuận.

Theo điều 297 của Công ước Luật biển, Toà ITLOS có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với các quyền tự do của các quốc gia khác về hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; đối với nghiên cứu khoa học biển; đối với các tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên Công ước lại cho phép các quốc gia khi ký kết, phê chuẩn hay tham gia Công ước, hoặc ở vào bất kỳ thời điểm nào sau đó, có thể tuyên bố bằng văn bản rằng mình không chấp nhận Tòa ITLOS (hoặc các Tòa trọng tài hay Tòa án Công l‎y quốc tế) có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15 (phân định Lãnh hải), 74 (phân định vùng đặc quyền kinh tế) và 83 (phân định thềm lục địa) hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử.

Đương nhiên nếu không có sự thỏa thuận của các quốc gia, Tòa ITLOS cũng như các Tòa khác không thể xem xét một vụ tranh chấp nào đòi hỏi nhất thiết phải xem xét đồng thời một vụ tranh chấp chưa được giải quyết liên quan đến chủ quyền và các quyền khác trên một lãnh thổ đất liền hay đảo.

2. Biển Đông và ITLOS

Tranh chấp Biển Đông có thể phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Theo nội dung tranh chấp gồm ba loại: tranh chấp chủ quyền các đảo, tranh chấp vùng biển liên quan đến các đảo có tranh chấp và tranh chấp phân định biển không liên quan đến chủ quyền. Theo số lượng các Bên tranh chấp có tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa, tranh chấp năm nước sáu bên trên quần đảo Trường Sa (Bruney, Malaysia, Philiipin, Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan). Theo dạng tranh chấp có các tranh chấp về hàng hải, về tài nguyên sinh vật biển, tài nguyên không sinh vật biển (như dầu khí, khoáng sản biển...), tranh chấp về đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, tranh chấp về môi trường biển, về nghiên cứu khoa học biển...Tranh chấp vùng biển lại liên quan chặt chẽ đến xác định chế độ các đảo. Giải quyết phân định biển giữa các quốc gia sẽ khác khi đảo có lãnh hải 12 hải ly so với khi đảo có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải ly và thềm lục địa riêng.

Tranh chấp Biển Đông còn phức tạp ở lập trường không giống ai của Trung Quốc. Có thể nhận thấy lập trường này có ba sự khác biệt:

1) Chính sách hai không. Trong khi luật quốc tế cũng như Công ước luật biển kêu gọi các Bên tranh chấp có nghĩa vụ giải quyết hòa bình tranh chấp bằng mọi thủ tục có thể thì Bắc Kinh duy trì chính sách hai không: không đa phương hóa, không quốc tế hóa, nghĩa là sẽ không có bất kỳ một sự can thiệp nào từ Bên thứ ba, kể cả các cơ quan tài phán quốc tế như ITLOS. Bắc Kinh cũng khăng khăng từ chối bất kỳ môt diễn đàn đàm phán nào về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Ngay cả Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông cũng được giải thích một cách kỳ cục là Tuyên bố giữa Trung QUốc với từng nước ASEAN chứ không phải được k‎ với danh nghĩa ASEAN là một khối.

2) Chính sách nước lớn hung hăng, đơn phương áp đặt. Ba thí dụ có thể minh chứng cho chính sách này. Bắc Kinh đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá trên toàn Biển Đông từ 15/5 đến 31/8 hàng nắm, đưa tàu ngư chính hiện đại xuống Biển Đông, vô có bắt giữ ngư dân các nước, tiêu hủy thuyền bè, ngư cụ, đối xử phi nhân đạo với ngư dân các nước. Hai là việc thường xuyên gây đụng độ, cắt cáp, vi phạm sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa từ đất liền các nước ven biển. Ba là áp đặt cả thế giới chấp nhận đường lưỡi bò đứt khúc 9 đoạn không có một cơ sở pháp ly‎.

3) Lập trường cố tình mập mờ, không rõ ràng và nhất quán. Bắc Kinh cho rằng có quyền lịch sử trong đường lưỡi bò. Thế nhưng Công ước Luật biển có nhắc đến danh nghĩa lịch sử chỉ trong điều 15 liên quan đến phân định lãnh hải 12 hải ly. Không có bất kỳ một văn bản pháp ly quốc tế nào cho phép yêu sách một vùng biển rộng đến vài chục lần bề rộng lãnh hải như vậy cả. Nếu cứ như lập luận của Bắc Kinh thì thế giới liệu có còn các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa khi các nước cứ cho rằng mình có quyền đánh cá lịch sử, truyền thống khi có công dân đến vùng biển đó cho dù là hãn hữu. Cùng là Phái đoàn Trung Quốc tại Liên hợp quốc mà lại có hai Công hàm với nội dung trái ngược nhau. Công hàm ngày 7/5/2009 đưa ra đường lưỡi bò và tuyên bố, "đối với chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa và các vùng nước kế cận, cũng như các quyền chủ quyền và tài phán đối với các vùng nước, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của chúng..". Công hàm ngày 14/4/2011 lại tuyên bố quần đảo Trường Sa hoàn toàn có các vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nghĩa là có các vùng biển theo Công ước Luật biển UNCLOS nhưng lại nằm trong phạm vi địa lý của đường lưỡi bò.

Liên quan đến chế độ pháp l‎ý các đảo, lập trường của Trung Quốc cũng hết sức phân biệt, không nhất quán. Trong biển Hoa Đông tranh chấp với Nhật Bản, Bắc Kinh cho rằng đảo Oki-no-Tori Shima mà Nhật Bản đang kiểm soát chỉ là một đá nhỏ có vùng biển 12 hải lý. Trong Biển Đông, nơi rất nhiều các đá nhỏ tương tự hoặc bé hơn Oki-no-Tori Shima thì Bắc Kinh lại đòi có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.

Cũng nên nhắc lại rằng trong phân định biển, các đảo dù lớn cũng không phải lúc nào cũng được đối xử ngang hàng, có cùng hiệu lực như lãnh thổ đất liền. Đảo Bạch Long Vỹ trong Vịnh Bắc Bộ có dân, có đời sống kinh tế riêng mà trong đàm phán Trung Quốc còn khăng khăng cho rằng đảo chỉ nên có lãnh hải 12 hải lý. Kết quả cuối cùng đảo cũng được hai bên thống nhát một hiệu lực hạn chế khoảng 25% so với đất liền. Trong Biển Đông, sự mập mờ giữa Công ước Luật biển và quyền lịch sử chỉ có thể giải thích bằng chủ trương mèo trắng mèo đen miễn là bắt được chuột tức mục tiêu độc chiếm Biển Đông.

Các điểm khác biệt trên cho thấy tại sao Bắc Kinh lại từ chối đề xuất của Manila. Đây không phải là lần đầu tiên Philippin đề xuất đưa tranh chấp Trường Sa ra trước các cơ quan tài phán quốc tế và lần nào Bắc Kinh cũng từ chối. Điều đó thật dễ hiểu vì không có một cơ quan tài phán quốc tế nào dù là ITLOS hay ICJ lại có thể đồng tình với quyền lịch sử của đường lưỡi bò. Đồng ý ‎đưa ra trước tòa án quốc tế đồng nghĩa với việc tức bỏ vũ khí "cố tình làm mọi việc không rõ ràng để trục lợi".

Bắc Kinh không thể giao quyền xét xử đường lỡi bò cho một bên thứ ba khi họ đang rất khó khăn chứng minh trên cơ sở "luật pháp quốc tế đã được công nhận". Với thể diện nước lớn và truyền thống của mình, Trung Quốc lại càng không muốn bất kỳ một Bên thứ ba nào can thiệp giải quyết "những vấn đề của Trung Quốc".

Vào thời điểm hiện tại, ITLOS không thể có thẩm quyền vì ngoài lý do Trung Quốc các nước tranh chấp Biển Đông cũng chưa có tuyên bố bằng văn bản lựa chọn Tòa để giải quyết các tranh chấp liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước. Vấn đề càng khó khăn hơn vì tranh chấp biển ở Biển Đông gắn liền với vấn đề tranh chấp chủ quyền trên đảo và theo điều 298 ITLOS không có thẩm quyền trong trường hợp này trừ phi các Bên tranh chấp có thỏa thuận khác.

Tuy nhiên khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế trong đó có ITLOS không phải là không có. Vấn đề mấu chốt gắn kết tranh chấp chủ quyền và tranh chấp biển ở Biển Đông chính là điều 121.3 về chế độ pháp lý‎ của đảo. Các đảo đá Hoàng Sa, Trường Sa có phải là các đảo đá có đời sống kinh tế riêng hoặc thích hợp cho con người đến ở không? Chúng có thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng không? Đảo nào có thể đáp ứng các yêu cầu của điều 121.3?

Một yêu cầu xuất phát từ Philippim, được sự ủng hộ của Việt Nam hoặc Malaysia hoặc Brunei hoặc tất cả các nước có tranh chấp cho ITLOS yêu cầu giải thích điều 121.3 và khả năng áp dụng ở Biển Đông là hoàn toàn có thể.

Liệu lúc đó Bắc Kinh sẽ đứng ngoài cuộc hay sẽ tham gia quá trình trên cơ sở điều 31 Quy chế của Tòa ITLOS: Trong một vụ tranh chấp, khi một quốc gia thành viên cho rằng một quyền lợi có tính chất pháp lý của mình bị đụng chạm, thì có thể gửi lên cho Toà án một đơn thỉnh cầu để yêu cầu xin tham gia. Nếu Toà án chấp nhận đơn thỉnh cầu, thì quyết định liên quan đến vụ tranh chấp có tính chất bắt buộc đối với quốc gia xin tham gia trong phạm vi mà quyết định này có quan hệ đến các điểm là nội dung của việc tham gia. Câu hỏi vẫn để ngỏ. Khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế như Tòa ITLOS phụ thuộc vào thiện chí của các Bên tranh chấp, vào tuyên bố bằng văn bản hay thỏa thuận của cấc Bên chấp nhận thẩm quyền của Tòa và vào câu hỏi đặt ra cho Tòa.
Tác giả: Việt Long
* Biển Đảo:
* Văn Hóa - Giáo Dục:
* Kinh Tế - Chính Sách:

* Tin khác:

Washington should support a sea lane security conference

[China Post] It's true that Vietnam is trying to manufacture a war scare over the Spratly Islands, a large archipelago that rides atop very rich oil reserves in the South China Sea. The Vietnamese navy has conducted a live-fire sea exercise to flex its military muscle in a show of force against the People's Republic of China. The People's Liberation Army (PLA) Navy retaliated in kind by sending its naval flotilla to the Spratlys, whose largest and only habitable island is under the control of the Republic of China.

At least six countries — including Taiwan, China, Vietnam and the Philippines — claim sovereignty over the Spratlys, known in Chinese as Nansha Jundao (South Sand Islands). As a matter of fact, the only habitable land of the island chain was first occupied by the Japanese shortly before World War II, and what was called Nagashima (Long Island) by the Japanese was renamed Taiping (Peace) after the R.O.C. warship that delivered a small contingent of marines to the islet to take over after the war. The Japanese placed the whole group under jurisdiction of Takao-shu, which is the present-day special municipality of Kaohsiung.

Taiwan isn't much concerned, though tensions are mounting over the Spratlys. The Ministry of National Defense (MND) denied on Saturday that there is a plan to provide Hai-ou (Sea Gull) missile boats and M41A3 tanks to the coast guards contingent stationed on Taiping Island. Nor will the R.O.C. Navy stage a maneuver at the end of this month, an MND spokesman pointed out. There's no need whatsoever to take any such action, because it's just a Hanoi-fomented war scare. Taiwan withdrew marines from Taiping in 1999, and replaced them with a coast guard force.

We are positive that no armed conflict will occur over the Spratlys. Despite the hollow saber-rattling, Vietnam and the Philippines have no stomach for a war against Taiwan and China. The Vietnamese were defeated by China in 1974 and ousted from the Paracel Islands, or Xisha-jundao (West Sand Islands), which lie south of Hainan and quite near Danang in South Vietnam. A brief sea encounter took place between the two countries over the Spratlys a few years ago, and the Vietnamese were trounced. In land battles, the Vietnamese may outdo the PLA, which in fact, they did in a brief war with the PRC under Deng Xiaoping in 1989. Hanoi knows full well it's no match for the PLA Navy in sea battles.

So the Vietnamese wish to draw the United States into any possible fray with Beijing. At one time, Washington was willing to back up Hanoi. U.S. Secretary of State Hillary Clinton said so, though not in as many words, at an ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) meeting in Hanoi earlier this year. But Uncle Sam has changed his mind. A State Department spokesman told the press not long ago that the United States did not support the Vietnamese sea maneuver, which isn't conducive to the reduction of tensions in the region.

Now that the U.S. has refused to side with Vietnam in any armed conflict with China, the only thing Hanoi can and should do is scale down its defense buildup. It's planning to buy six Kirov submarines and 12 Su-30 fighters from Russia. Israel is said to sell short-range ballistic missiles to Vietnam. There's no reason why such expensive military hardware should be acquired for a shadowboxing match with China. Instead, Hanoi should spend its hard currency on promoting economic growth to enable the Vietnamese people to live better.

But there is one thing the United States can and should do. Washington must call an international conference on the security of sea lanes in the South China Sea. Beijing is against American participation in regional meetings to hammer out plans to shelve the issue of sovereignty and jointly tap the oil resources of the Spratlys, but seems ready to support a Washington-backed conference on the security of the South China Sea. The United States should invite Taipei to take part in that meeting.
Other Articles:

Monday, July 18, 2011

Nguyên PTT Vũ Khoan: “Cần có trái tim nóng và cái đầu lạnh”

[TVN] Các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những lợi ích riêng, nhiều khi "vênh nhau", thậm chí trái chiều nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh nhưng không nhất thiết lúc nào cũng đưa tới xung đột quân sự. Quan hệ quốc tế của nước ta cũng không phải ngoại lệ. Vấn đề chỉ là xử lý thế nào cặp quan hệ đó cho có lợi nhất đối với đất nước.

Thế giới và khu vực bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI với biết bao phức tạp, rối ren. Sau những năm tháng tưởng như hưng thịnh vào đầu những năm 2000, tới cuối thập kỷ bỗng bùng phát cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ và suy giảm kinh tế toàn cầu tồi tệ nhất trong 80 năm. Cho tới nay, kinh tế thế giới vẫn chưa vực dậy được. Một loạt nước châu Âu tưởng như rất giàu sang bỗng đứng trước nguy cơ vỡ nợ, thậm chí nước giàu nhất thế giới là Mỹ cũng thành "Chúa Chổm".

Sau sự lụn bại đó, kinh tế thế giới đang trải qua một cuộc đại phẫu: Từ cơ cấu sản xuất, tiêu dùng, tài chính-tiền tệ cho tới chính sách, cơ chế quản lý; sức mạnh các nền kinh tế và quan hệ kinh tế quốc tế đang được xếp sắp lại... Về chính trị-an ninh, thế giới đang chứng kiến hai cuộc chiến tranh nóng kéo dài ở I-rắc và Áp-ga-ni-xtan, sự xáo động xã hội dữ dội ở Trung Đông, Bắc Phi, không ít cuộc khủng bố, xung đột, căng thẳng về chủ quyền lãnh thổ và tài nguyên, kể cả trên Biển Đông; sức mạnh các quốc gia và bàn cờ quốc tế đang chuyển dịch mạnh.

Những diễn biến dồn dập về cường độ, rộng lớn về phạm vi, sâu sắc về ý nghĩa nói trên cho thấy cục diện thế giới ẩn chứa rất nhiều nhân tố bất định đòi hỏi mọi quốc gia, trong đó có nước ta, phải tỉnh táo nắm bắt, chọn lựa chính xác cách hành xử thích hợp.

Nhìn nhân tình thế thái mới, có lẽ nên ôn lại và vận dụng thật tốt những bài học của nền ngoại giao Hồ Chí Minh để ứng phó với cái "vạn biến" đang diễn ra.

Trong hơn 65 năm qua kể từ sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta đã phải trải qua biết bao thử thách, biết bao thời khắc hiểm nguy: Nào là thù trong giặc ngoài khi nước Việt Nam độc lập còn trong trứng nước, nào là mấy cuộc kháng chiến chống ngoại xâm liên tiếp và kéo dài, nào là tình thế bị bao vây cô lập hơn một chục năm trời. Thế nhưng nhân dân ta đã vượt qua được tất thảy, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động ngoại giao. Ngày nay, lực và thế của nước ta đã khác hẳn trước, há nào không xây dựng và bảo vệ thành công đất nước? Ôn cựu, trước hết là ôn lại và củng cố niềm tin; không có nó thì chẳng làm nên điều gì!

Niềm tin ở đây không phải là mù quáng mà dựa trên những bài học của quá khứ, sự nhận diện một cách khoa học, tỉnh táo hiện tại và đoán định tương lai.

Trên chặng đường nào cũng vậy, điều then chốt là xác định cho trúng và kiên trì cái "bất biến", hay nói một cách khác là cái lợi ích chính yếu của đất nước. Ngày nay, phải chăng cái "bất biến" đối với nước ta là "lợi ích kép": Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời duy trì sự ổn định chính trị-xã hội trong nước và môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế-xã hội. Hai vế đó gắn bó mật thiết với nhau, tác động qua lại và là tiền đề của nhau. Nói một cách hình tượng thì hai vế đó giống như hai cái cánh của một con chim; gẫy cánh nào chim cũng không bay nổi.

Đối với mọi quốc gia, lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ luôn luôn là nghĩa vụ thiêng liêng; không bảo vệ được chúng thì khỏi nói đến chuyện phát triển. Ngược lại, không nỗ lực tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất để phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia thì cũng không lấy đâu ra "thực lực" và không thể tạo dựng được "vị thế" cần thiết để bảo vệ đất nước. Do đó bất luận thế nào, về phần mình, chúng ta cần chủ động "ứng vạn biến" để bảo vệ trọn vẹn cả hai vế. Đương nhiên, làm được như vậy không dễ vì có những nhân tố không tùy thuộc vào bản thân chúng ta. Nhưng càng khó chúng ta càng cần huy động nguồn trí tuệ và sự khôn khéo vốn có của trường phái ngoại giao Việt Nam mà Bác Hồ là một biểu tượng sáng ngời.

Khéo gì thì khéo vẫn phải có thực lực cả về vật chất lẫn tinh thần, hữu hình lẫn vô hình. Chỉ có vậy mới vận dụng được bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh dân tộc, trước hết nằm ở sức mạnh kinh tế và quốc phòng-an ninh. Để củng cố sức mạnh ấy, đương nhiên Nhà nước gánh trách nhiệm lớn song rất cần sự đồng lòng, nhất trí và sự đóng góp thiết thực của mỗi người chúng ta bằng những hành động cụ thể. Lòng yêu nước lúc này cần được thể hiện không chỉ bằng những lời nói mà trước hết trong những việc làm góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh.

Bên cạnh sức mạnh vật chất, dân tộc ta vốn có những sức mạnh vô hình, nhiều khi còn lớn hơn sức mạnh vật chất. Đó là sức mạnh chính nghĩa, truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết dân tộc. Vốn bị áp bức, đè nén, xâm lược, bao vây, nghèo nàn, nhân dân ta luôn theo đuổi những mục tiêu chính đáng: Quyền được sống trong điều kiện độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, được an hưởng hòa bình, có được cuộc sống ấm no hạnh phúc, có quan hệ hợp tác hữu nghị với mọi dân tộc trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi dựa trên luật pháp quốc tế. Tính chính nghĩa của những mục tiêu theo đuổi tạo nên sức mạnh tinh thần, quy tụ ý chí toàn dân tộc, đồng thời tranh thủ được sự đồng tình của mọi người có lương tri trên thế giới.

Tinh thần yêu nước cháy bỏng và khối đoàn kết dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm giữ nước, thường được thể hiện mạnh mẽ mỗi khi đất nước gặp khó khăn thử thách. Lúc này đây, truyền thống yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc cần được quy tụ vào việc bảo đảm cả hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi hành vi, cho dù xuất phát từ những động cơ rất trong sáng, nhưng vô hình trung tạo ra sự phân tâm hoặc bất ổn xã hội, gây trở ngại cho việc củng cố tiềm lực, triển khai chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa đều có thể làm cho sức mạnh dân tộc bị suy yếu, chỉ có lợi cho những người muốn thấy một nước Việt Nam yếu và chia rẽ. Đó là chưa kể một số kẻ mưu toan "đục nước béo cò", lợi dụng nhiệt huyết của các tầng lớp nhân dân để phục vụ cho những tính toán riêng của họ.

Nhân dân ta còn có một sức mạnh khác mà không phải dân tộc nào cũng có. Đó là mối cảm tình, sự tôn trọng của nhân dân thế giới do ý chí đấu tranh kiên cường, sự hy sinh lớn lao và những cống hiến quý báu vào sự nghiệp độc lập dân tộc trong quá khứ cũng như thái độ đầy trách nhiệm và những đóng góp tích cực cho hòa bình, hợp tác và phát triển hiện nay.

Hoạt động ngoại giao tích cực, chủ động, linh hoạt với tinh thần rộng mở và thái độ trách nhiệm cao, ra sức đóng góp cho sự nghiệp hòa bình, hợp tác phát triển chung của khu vực và thế giới, qua đó thu phục lòng người có thể tạo nên "sức mạnh mềm" có lợi cho việc củng cố thế và lực của đất nước. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong khi "lực" chưa mạnh đủ mức nhưng tạo được "thế" thuận lợi thì lực sẽ được nhân lên bội phần. Trước đây đã vậy, ngày nay không khác.

Trong hoàn cảnh hiện nay, sức mạnh thời đại thể hiện trong khát vọng của nhân dân thế giới về hòa bình và hợp tác để phát triển, về một trật tự chính trị và kinh tế quốc tế bình đẳng, cùng có lợi dựa trên những chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa tạo nên tính tùy thuộc lẫn nhau, lợi ích đan xen. Mọi quốc gia lớn nhỏ đều phải cân nhắc thiệt hơn trong sự hành xử của mình nếu đi ngược lại những chiều hướng đó.

Những ước nguyện chính đáng của nhân dân ta bắt gặp ý nguyện và xu thế chung của nhân loại tạo nên sức mạnh to lớn, giúp nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thử thách mới.

Kiên trì, nhất quán theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ đi liền với chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa là một bài học lớn nữa đem lại thành công trên mặt trận ngoại giao. Thực tiễn mấy chục năm qua cho thấy, ta chỉ có thể thành công nếu kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, ra sức huy động sức mạnh và trí tuệ của bản thân đi đôi với việc nỗ lực tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế rộng rãi nhất có thể và thực thi một chính sách đối ngoại khôn khéo, tạo dựng thế đứng cơ động, linh hoạt, không để bị lợi dụng hoặc rơi vào thế cô lập.

Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy, mỗi quốc gia đều có lợi ích và tính toán riêng, do đó không phải một lần những vấn đề liên quan tới lợi ích của nước ta đã được đem ra xếp sắp, trao đổi trên bàn cờ quốc tế. Ngày nay, bài học này vẫn còn nguyên giá trị. Muốn tránh lặp lại tình trạng này, không có cách nào khác ngoài việc phát huy cao độ tinh thần tự lực tự cường, kiên định, nhất quán theo đuổi đường lối độc lập tự chủ và chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa.

Các quốc gia tuy chia sẻ một số lợi ích chung song luôn có những lợi ích riêng, nhiều khi "vênh nhau", thậm chí trái chiều nhau, nên trong quan hệ quốc tế luôn diễn ra quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh nhưng không nhất thiết lúc nào cũng đưa tới xung đột quân sự. Quan hệ quốc tế của nước ta cũng không phải ngoại lệ. Vấn đề chỉ là xử lý thế nào cặp quan hệ đó cho có lợi nhất đối với đất nước. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, muốn vậy cần tìm mọi cách hạn chế tới mức tối đa những mâu thuẫn, xung khắc, đối đầu, song song với những cố gắng không mệt mỏi thúc đẩy sự hợp tác với mọi quốc gia trong khi vẫn tự chủ, không rơi vào thế phụ thuộc. Nếu xảy ra khác biệt, xung đột lợi ích thì con đường tốt nhất là thông qua đối thoại, thương lượng để giải quyết; vấn đề gì liên quan tới hai nước thì thông qua kênh song phương, vấn đề liên quan tới nhiều bên thì thông qua kênh đa phương, kể cả các tổ chức khu vực và toàn cầu. Điều này cũng phù hợp với xu thế đa phương trong thế giới ngày nay.

Mặt khác cần kiên trì, khôn khéo đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của mình, song cố tránh đi tới xung đột trực diện gây phương hại cho yêu cầu giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để phát triển và thế cơ động trong quan hệ quốc tế. Một nét đặc sắc không chỉ về ngoại giao mà cả trong truyền thống của dân tộc ta là tính nhân văn, luôn phân biệt rõ cái thiện, cái ác, luôn coi nhân dân các nước xâm lược nước ta là bạn, là đồng minh và rất xa lạ với những biểu hiện dân tộc hẹp hòi, kích động hằn thù mù quáng. Có thể nói, phương châm "thêm bạn bớt thù" của ông cha ta tiếp tục là một công cụ hữu hiệu trong quan hệ quốc tế ngày nay.

Nói tóm lại, tình hình càng phức tạp chúng ta càng cần phải vận dụng nhuần nhuyễn những truyền thống, những bài học lớn đã thu lượm được trong suốt chiều dài lịch sử từ ngày Nhà nước Việt Nam mới ra đời đến nay. Dũng khí cần song hành với mưu lược, nhiệt huyết cần đi đôi với sự tỉnh táo, có trái tim nóng chưa đủ mà cần có cái đầu lạnh.
Tác giả: VŨ KHOAN, NGUYÊN BÍ THƯ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG, NGUYÊN PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
* Biển Đảo:
* Văn Hóa - Giáo Dục:
* Kinh Tế - Chính Sách:
* Tin khác:

South China Sea: Vietnam wants ASEAN as forum for negotiations by Thanh Thuy

[Asia News] Beijing continues to go after Vietnamese fishing boats as it prepares to explore the seabed for oil and gas. ASEAN security summit set to open in a few days. Vietnam and other regional powers want to discuss maritime borders despite Chinese opposition.

Hanoi – As it prepares to survey the Spratly Islands for oil and gas, China continues to chase Vietnamese fishing boats. In a few days, the Association of South East Asia Nations (ASEAN) will meet for its annual summit on security. The territorial disputes between China and other nations over the islands in the South China Sea will be on its agenda.

Fishermen from the Vietnamese province of Quang Ngai reported on Saturday that a Chinese naval ship, bearing the number 44861, “threatened a Vietnamese fishing boat, numbered QNG- 98868TS, with machine guns. About ten Chinese sailors boarded the vessel and beat Vietnamese fishermen and seized about a tonne of fish”.

In China, media have reported the arrival of Ocean 981, a deepwater drilling platform. It is 650 metres long, 136 metres high, and has a load of 30,000 tonnes. It can drill at depths of 1,500-3,000 metres, and ha operational costs of about a US$ 1 million a day.

By engaging in such a survey, China is staking its claim to the area. Experts believe the South China Sea has an estimated equivalent of around 35-50 billion tonnes in oil and gas, second only to the Persian Gulf.

Beijing has been aggressive in claiming sovereignty over the Spratly and Paracel Islands, which Vietnam has been exploiting for more than a thousand years for its fishing and other resources. China sent its ships into the area for the first time in 1974.

At that time, the islands were controlled by the Saigon-based Republic of Vietnam, whilst China had good relations with Communist-controlled North Vietnam, whose capital was in Hanoi.

Vietnam now wants the issue of sovereignty to be debated in an international forum and has called on the United States and ASEAN to play a role in finding a peaceful solution through negotiations that would also guarantee free shipping in the sea.

Meanwhile, Vietnam and the United States are involved in joint naval exercises (15-21 July) that do not include actual arms exercises but involve sports and civilian exchanges.

China has always rejected third parties in its bilateral relations. However, Beijing has never engaged Vietnam directly, except by sending its own ships into disputed areas. It has called on Washington to reconsider planned joint activities with Hanoi. Conversely, Vietnam wants to strengthen trade and other ties with the United States.

Under the circumstances, Hanoi hopes that ASEAN, which meets in a few days time in Bali, will provide a forum for a diplomatic solution. In addition to ASEAN members (Vietnam, Philippines, Indonesia, Cambodia, Thailand, Malaysia, Singapore, Brunei, Laos and Myanmar), China, the United States, Japan, Australia and other nations will participate.

Experts believe China will reject any international approach to a matter that involves its maritime space, which it views crucial for national security.

Tokyo is also involved in maritime disputes with Beijing. Japanese foreign ministry spokesman Satoru Satoh recently said that his government hoped for constructive discussion in Bali on the South China Sea issue. 

"We recognise that the issue of the South China Sea is a matter of common interest for the international community," he said.
Other Articles:

Kỹ năng hội họp: Vài trò - Chức năng và những kỹ năng chính

[Marketing4u.vn] Các giải pháp cho các vướng mắc trong thế giới thực được tìm thấy xuyên qua cuộc họp và thảo luận nhóm. Một cuộc họp vẫn tốt hơn là điện thoại, máy fax, hội nghị bằng video, máy vi tính, các sản phẩm khác của công nghệ thông tin hoặc các cá nhân làm việc một mình.

Vai trò và chức năng của hội họp

Những cuộc họp đóng vai trò rất quan trọng, vì đó là nơi mà bầu không khí và văn hoá của tổ chức được duy trì, là một trong những cách thức để các tổ chức nói với đội ngũ nhân viên của mình rằng: “Bạn là một thành viên của tập thể”

Nếu bạn tổ chức những cuộc họp buồn tẻ, yếu kém mà lại kéo dài lê thê, thì các nhân viên sẽ bắt đầu tin rằng mình đang làm việc cho một công ty tẻ nhạt, kém cỏi và không biết quý trọng thời gian.

Các chức năng của một cuộc họp:
  • Thảo luận - Tranh luận - Tranh đấu về những vấn đề/chủ đề thiết yếu

  • Hình thức của làm việc nhóm

  • Chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, sự đánh giá, và các truyền thống giao lưu

  • Công việc tập thể và sự đóng góp cá nhân

  • Ra các quyết định quyết đoán và cam kết tập thể

  • Đức tính của lãnh đạo và nhóm/ công việc nhóm

Các dạng hội họp:
  • Hội nghị

  • Hội đồng - Ủy ban

  • Điều đình, thỏa thuận

  • Động viên (Các buổi giao lưu, buổi nói chuyện,...)

  • Ra quyết định (Chiến lược, kế hoạch, chiến dịch, chính sách,...)

  • Thường xuyên - Hàng ngày (thảo luận nhóm tác nghiệp)

  • Hàng tuần hoặc hàng tháng (Giao ban định kỳ - Tổng kết hàng tháng)

  • Bất thường, không thường xuyên hoặc kế hoạch đặc biệt.

Chuẩn bị cho một cuộc họp 
  • “Các quan hệ mật thiết gì để nắm chắc và nắm vững cuộc họp ….”

  • “Sau khi họp xong, có bất kỳ tiêu chuẩn nào hoặc cơ chế để xác định có hay chăng cuộc họp là thành công hoặc thất bại…”

  • Xác định rõ những mục tiêu và kết quả mong đợi. Bạn cần biết chính xác mình đang cố gắng đạt được điều gì thông qua cuộc họp.

  • Xác định xem liệu những hoạt động khác có thể sẽ phù hợp hơn không, hay nhất thiết phải tổ chức các cuộc họp bàn. Đã có không ít cuộc họp vô bổ được triệu tập, trong khi chỉ một vài cuộc điện thoại, trao đổi email, hay gặp gỡ trực tiếp sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.

  • Xác định các chủ đề trọng tâm và hình thức thảo luận tốt nhất của mỗi cá nhân. Bạn cần hiểu rõ mình muốn đạt được điều gì thông qua những thảo luận này.

  • Ước lượng thời gian cho cuộc họp. Những người tham gia cần biết thời lượng cuộc họp để lên kế hoạch công việc cho phù hợp.

Lịch trình cuộc họp một cách chi tiết và cụ thể:

Tuyên bố thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời gian là vàng bạc … hãy lên kế hoạch một cách sáng suốt!

Xác định địa điểm tổ chức cuộc họp.
  • Lên danh sách những người tham dự và khách mời.

  • Thống kê vai trò của những người tham gia cuộc họp và những điều bạn mong đợi ở họ. Việc này “bắt buộc” những người tham dự thu thập tất cả những thông tin có liên quan mà họ cần mang tới cuộc họp.

  • Chuẩn bị cho những cuộc thảo luận được diễn ra một cách có tổ chức, phù hợp với mục tiêu, chủ đề và định hướng chung của cuộc họp.

  • Gửi trước lịch trình cho những người tham dự để họ có thời gian lên kế hoạch và chuẩn bị cho cuộc họp.

Phân công người ghi chép (lập biên bản cuộc họp)
  • Những ai đã có mặt.

  • Những vấn đề nào cần được thảo luận.

  • Những quyết định chủ chốt nào cần hướng tới.

Các bước tiếp theo (hành động cụ thể):
  • Những ai phải hoàn thành nhiệm vụ đặt ra

  • Lên danh sách các tập thể và các thành viên bên ngoài.

  • Ngày bắt đầu và ngày kết thúc nhiệm vụ.

  • Những việc họ cần hoàn thành chính xác là gì.

Định nghĩa mục tiêu
  • Cung cấp thông tin – Dể hiểu

  • Có cấu trúc- nguyên thủy

  • Các trách nhiệm thi hành

  • Bộ khung pháp lý

Con người
  • Tối ưu hóa số người tham dự cuộc họp.

  • Kế hoạch sơ bộ của cuộc họp và thảo luận với các thành viên chủ chốt trước cuộc họp.

Văn kiện/Tài liệu:
  • Tài liệu quan trọng nhất trong một cuộc họp là chương trình nghị sự vì vậy hãy chuẩn bị nó thật cẩn thận.

  • Phân loại chúng cẩn thận: cái nào cho thông tin, cái nào cho thảo luận, hoặc cái nào cho quyết định để mà sự quan trọng và thời gian đã được yêu cầu, có thể được tiến hành trên mỗi loại

Chủ tọa
  • Bạn là “sếp”, điều đó đúng nhưng đừng quá nhấn mạnh vào điều đó khi điều hành một cuộc họp

  • Lắng nghe, và không nói mãi cho đến khi nào bạn thấy là cần thiết.

Vai trò của bạn là hỗ trợ nhóm để đi đến một kết luận tốt nhất có thể hoặc quyết định trong một cách có hiệu quả nhất và dẫn đến một quyết định chấp nhận được hoặc một quyết định mà được hiểu và được chấp nhận bởi đa số.


Điều hành cuộc họp

Bắt đầu cuộc họp
  • Truyền đạt mục tiêu và kết quả mong muốn tới tất cả những người tham dự cuộc họp.

  • Làm rõ những cách thức tham gia và giao tiếp trong cuộc họp mà bạn mong muốn.

Đặt ra những nguyên tắc cơ bản (Tiêu chuẩn):
  • Khi nào cuộc họp dừng lại và kết thúc.

  • Các thành viên sẽ được nghe bàn thảo như thế nào.

  • Các mâu thuẫn, xung đột sẽ được giải quyết như thế nào.

  • Mong đợi những gì ở mỗi thành viên.

  • Những chủ đề chỉ được lưu hành nội bộ.

  • Hãy thể hiện rằng bạn thực sự đánh giá cao các ý kiến, nhận định và chất vấn của mọi người.

Dẫn dắt cuộc họp
  • Dành thời gian để trò chuyện và nghe mọi người nói, đồng thời chia sẻ với họ những câu chuyện đó.

  • Làm rõ và diễn giải cẩn thận những ý kiến then chốt.

  • Đề nghị mọi người đưa ra quan điểm của mình, bảo vệ những ý tưởng mới.

  • Sử dụng những “kỹ năng động não” (brainstorming techniques).

Ghi lại những ý tưởng và lưu ý trên một biểu đồ minh hoạ:
  1. Sử dụng các màu sáng và chữ in đậm.

  2. Sử dụng hình ảnh cùng các câu chữ.

  3. Sử dụng các dấu hoa thị (*) để nhấn mạnh các điểm them chốt.

  4. Sử dụng không quá 7 từ trên một dòng và 7 dòng trên một biểu đồ.

  5. Đăng tải tất cả các biểu đồ để mọi người có thể dễ dàng tham khảo khi cần thiết.

  6. Vào cuối cuộc họp, chuyển các biểu đồ này tới người thư ký ghi chép để sau đó đưa chúng vào biên bản cuộc họp.

  • Đưa ra những câu hỏi mở nhằm khuyến khích sự đóng góp ý kiến của mọi người.

  • Lịch trình cuộc họp xứng đáng để được thực hiện Hướng sự tập trung vào ư tưởng, quan điểm, chứ không phải vào những con người.

  • Ấn định những bước tiếp theo trong thời gian diễn ra cuộc họp và đảm bảo rằng những hành động này đều được phân công một cách cụ thể.

  • Bám sát chủ đề của cuộc họp đã đề ra trong lịch trình. Đừng quá lệch hướng khỏi những chủ đề đã định hay làm cho nó trở nên một cách nghiêm túc … nhưng đừng dập tắt sự sáng tạo hay làm tổn thưõng đến những người tham dự cuộc họp đang đi lệch hướng

Duy trì trọng tâm và tiến triển của cuộc họp
  • Thu nhận những thông tin và dữ liệu từ cuộc họp. Đảm bảo rằng tất cả mọi người đều đã được nghe và biết những thông tin đó.

  • Để mọi người tham dự thực thi nội dung cuộc họp, bạn chỉ là người dẫn dắt tiến trình mà thôi.

  • Biểu lộ sự cảm kích và ủng hộ những đóng góp mang tính xây dựng của mọi người.

  • Sử dụng lịch trình để đảm bảo cuộc họp tiến triển theo đúng kế hoạch.

  • Điều chỉnh nhịp độ của cuộc họp: đẩy nhanh, chậm lại, tạm ngưng, thay đổi hướng tiến triển.

  • Để mọi người biết rằng họ đang ở giai đoạn nào trong lịch trình cuộc họp đã định.

  • Sơ kết định kỳ những điểm chủ chốt và để mọi người thông qua.

  • Giúp đỡ mọi người đạt được sự đồng thuận và tìm kết luận.

Chủ tọa
  • Bạn nên chỉnh lý chương trình nghị sự và đảm bảo rằng thời gian là không bị lãng phí với từng nội dung họp hoặc các tiêu chuẩn khác khống chế thời gian thảo luận hoặc không cho phép các phát biểu dài.

  • Đảm bảo rằng tất cả được cung cấp quyền như nhau để nói

Điều hành cuộc họp
  • Đảm bảo rằng tất cả thành viên hiểu rằng tại lúc bắt đầu nội dung nào là được thảo luận, vấn đề cần giải quyết và các mục tiêu cần phải đạt được của cuộc họp

  • Lắng nghe cẩn thận và duy trì cuộc họp tập trung về các mục tiêu của nó.

  • Đơn giản hóa tất cả những phức tạp sử dụng các tóm tắt và tổng kết.

  • Ngăn chặn các hiểu lầm và sự mơ hồ và cố gắng duy trì sự trong sáng trong các buổi thảo luận

  • Kết thúc các thảo luận dài trước khi quá muộn.

  • Cố gắng để đạt được sự mãn nguyện lẫn nhau nhưng không lãng phí toàn bộ thời gian của bạn vào các nội dung đơn lẻ

  • Tại cuối của mỗi nội dung trong chương trình họp, tổng kết cái gì đã được thảo luận và cái gì đạt được sự đồng thuận.

Giải quyết với các lời phê bình (LOAFS)
  • Lắng nghe nó (Listen to)

  • Quan sát (Observe)

  • Chấp nhận (Accept)

  • Chịu đựng nó (Feel)

  • Ngậm miệng (Shut-Up)

Điều đó giải thích tại sao chúng ta có hai tai, hai mắt và chỉ có một miệng

Thời gian trình bày
  • Mục tiêu của bạn là đảm bảo công bằng và cơ hội bình đẳng cho mọi thành viên tham gia phát biểu.

  • “Bẻ gãy sự im lặng”, đặc biệt là khi các thành viên là quá nhút nhát hoặc thù địch.

  • Không cho phép “người cũ” làm hại “người mới”. Hãy nhớ rằng tất cả là bình đẳng.

  • Khuyến khích ý kiến tốt xuyên qua sự xung đột giữa các ý tưởng, nhưng cần tránh và không cho phép các mâu thuẩn cá nhân

  • Cẩn thận với những phản ánh đã đề nghị mà loại trừ nhau, chèn ép nhau. Tuy nhiên cũng có những đề nghị mà chứa đựng những mầm mống cho thành công của tương lai.

  • Khuyến khích ‘người mới” nói trước và sau đó là “người cũ”

  • Kết thúc với một lời phát biểu tích cực.

Kết thúc cuộc họp
  • Giúp đỡ tập thể quyết định những bước tiếp theo.

  • Xem xét lại những bước đi tiếp theo đã được ấn định, đảm bảo rằng mỗi người đều biết rõ nhiệm vụ của mình. Hãy chắc chắn rằng mọi người đang chuyển từ “bàn bạc” sang “hành động”.

  • Ở phần kết luận, hãy tổng kết lại những gì tập thể đã làm được.

  • Lịch sự cảm ơn sự tham gia và đóng góp của mọi người trong cuộc họp.

Nội dung tối thiểu cơ bản của biên bản cuộc họp:
  • Thời gian, ngày, nơi họp và chủ toạ cuộc họp

  • Tên của tất cả thành viên dự họp và thành viên vắng mặt (cùng với lý do vắng mặt).

  • Toàn bộ các nội dung thảo luận, ra quyết định, trách nhiệm cá nhân cho các nhiệm vụ được phân công.

  • Thời điểm kết thúc họp

  • Thời gian, ngày, nơi chốn cho lần họp kế.

Tài nguyên tốt nhất cuả tư liệu và ký ức của một cuộc họp là biên bản cuộc họp, vì thế hãy dùng một ít thời gian của bạn để đảm bảo rằng chúng đã được soạn thảo thích hợp.

Những hành động tiếp theo
  • Đánh giá về cuộc họp: Những gì đã làm được? Những gì chưa làm được? Những gì cần cải thiện trong những lần tiếp theo?

  • Chuẩn bị những việc “hậu- bàn bạc” sau khi cuộc họp kết thúc.

  • Trên cơ sở biên bản cuộc họp và cảm nhận của chính mình, bạn hãy soạn ra một văn bản miêu tả đầy đủ và rõ ràng về cuộc họp và đừng quên đưa vào những lời bình luận, câu hỏi, phê phán, và phân tích theo chiều sâu để nâng cao chất lượng của văn bản.

  • Gửi văn bản này tới tất cả những người tham gia cuộc họp, cũng như tới những nhân vật quan trọng khác trong tổ chức.

  • Giám sát tiến trình thực hiện các bước đi tiếp theo.

3 kỹ năng cơ bản điều hành cuộc họp thành công

Người điều hành chính là người chịu trách nhiệm về nội dung và kết quả của cuộc họp. Trước hết bạn phải tuân thủ chính xác về thời gian. Bạn cũng phải giám sát quá trình tranh luận chặt chẽ và khéo léo điều khiển để tránh nảy sinh mâu thuẫn và cãi lộn.

Cuộc họp là nơi để trao đổi và bàn bạc vì vậy thường có không khí trang trọng. Nếu cuộc họp không được chuẩn bị chu đáo sẽ trở nên kém hiệu quả và mất thời gian.
Do vậy người điều hành cuộc họp cần có những kỹ năng cơ bản nhất về cách thức để tổ chức một cuộc họp thành công. 

Chuẩn bị những thứ cần thiết
Trong cuộc họp đa số các sự trao đổi đều mang tính tự phát. Quá trình cuộc họp diễn ra không hoàn toàn được định trước mà nó chỉ theo một đề cương cơ bản. Ngoài ra kết quả của cuộc họp không dễ mà được thống nhất nhanh chóng. Bởi vậy hai điều quan trọng nhất trong công tác chuẩn bị một cuộc họp là: Đặt ra mục đích rõ ràng, thực tế và chuẩn bị những vấn đề cần bàn bạc một cách cụ thể.

Khi một cuộc họp được tiến hành bạn cần nhìn ra ngay mục tiêu cốt lõi của nó. Đôi khi các vấn đề có thể được giải quyết mà không cần đến một cuộc họp do vậy trước hết bạn hãy quyết định tính chất cần thiết phải có một cuộc họp. Thông thường chúng ta cần đến một cuộc họp khi các vấn đề cần giải quyết bằng tư duy, khi cập nhật thông tin mới hoặc khi cần tổng hợp thông tin.

Vấn đề cần bàn bạc chính là cốt lõi của cuộc họp. Người điều hành chủ yếu dựa vào yếu tố này để xây dựng đề cương cho cuộc họp. Cần phân chia thời gian hợp lý cho từng vấn đề và chú thích thời gian trong đề cương cuộc họp gửi đến các thành viên để họ định hướng thời gian bàn bạc cho từng vấn đề cụ thể.

Thể hiện vai trò của người điều hành một cách hiệu quả
Người điều hành chính là người chịu trách nhiệm về nội dung và kết quả của cuộc họp:
  • Trước hết bạn phải tuân thủ chính xác về thời gian.

  • Bạn cũng phải giám sát quá trình tranh luận chặt chẽ và khéo léo điều khiển để tránh nảy sinh mâu thuẫn và cãi lộn.

  • Cần quan sát các thành viên và ghi nhớ thái độ, ý kiến của họ trong cuộc họp.

  • Nếu có thể bạn hãy tạo điều kiện cho các thành viên có cơ hội được chào hỏi xã giao trước cuộc họp, điều này sẽ phần nào giúp hạn chế tranh cãi gay gắt hay gây gổ trong cuộc họp căng thẳng.

Tổng hợp cuộc họp là bước rất quan trọng
  • Trước khi kết thúc cuộc họp bạn hãy tổng kết lại những vấn đề cốt lõi đã được giải quyết hay còn tồn đọng và giao việc cụ thể cho từng thành viên.

  • Nhắc nhở những thành viên về nhiệm vụ của họ được giao sau cuộc họp.

  • Nếu có thể hãy xin nhận xét của những thành viên tham gia về cuộc họp mà bạn tổ chức.

Điều này giúp bạn rút kinh nghiệm và làm tốt hơn những lần sau. Hãy cố gắng tổng hợp cuộc họp trong vòng 24h sau khi kết thúc.
Marketing4u.vn - Sưu tầm & tổng hợp các bài viết báo - internet